Biểu cảm về cây dừa trong đời sống người dân Nam bộ

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Biểu cảm về cây dừa trong đời sống người dân Nam bộ


    [​IMG]
    Sức sống mãnh liệt của cây dừa Nam bộ


    • Mở bài:
    Tôi ngã mình trên đống rơm, ngữa mặt nhìn lên tán lá dừa lấp lánh ánh trời. Tàu dừa rung gió khua động rì rào, rì rào như tiếng cười của nắng, của mây, của trăm phương đất phù sa lầy lội…
    • Thân bài:
    Tôi không biết cây dừa trước cổng nhà ông có từ bao giờ. Chỉ biết khi tôi sinh ra đã thấy nó đứng ở đấy rồi. Tuổi nó còn nhiều hơn cả tuổi mẹ tôi như lời ông tôi nói. Nếu đúng như thế thì nó đã hơn 40 tuổi rồi.
    Có lẽ trong vườn cây nhà ông, cây dừa lớn tuổi nhất. Gốc dừa to bè ra, lớp vỏ ở gốc bong tróc sần sùi như lớp da của người già. Từ gốc cây, rễ đâm ra tua tủa, nổi gồ ghề trên mặt đất như trăm nghìn con giun đất đang cố chui vào trong lòng đất. Thân cây cao vút, đẩy tán lá dừa tách biệt lên tầng cao thật ấn tượng. Nhưng thân dừa không thẳng tắp mà có chỗ cong cong, oằn xuống rồi lại vươn lên. Nhìn từ xa, giống như nó đang tạo dáng trong một điệu múa cuồng say nào đó.
    Bởi ngọn cây cao nhất trong vườn nên mỗi khi có gió thổi, nó thường rung lên đầu tiên. Tiếng lá xào xạc bắt đầu một bản giao hưởng đồng quê xanh ngắt. Cây dừa đường hoàng giống như một vị nhạc trưởng đang điều khiển cả một dàn nhạc cây vĩ đại. Dừa cũng là cây đón ánh nắng đầu tiên ngày mới. Từng bẹ dừa khỏe khoắn vươn mình trong nắng sớm như một lực sĩ khổng lồ.
    Ở Bến Tre quê tôi, người ta thường trồng dừa thành hàng hoặc thành đám lớn. Dọc bờ kênh, hàng dừa nghiêng nghiêng bóng nước ngày đêm đu đua trong gió. Bởi gặp mảnh đất lành, dừa quê tôi rất sai quả. Mỗi cây hằng năm cho đến hơn trăm quả ngọt giúp bà con nông dân tạo dựng cuộc sống.
    Bởi trồng nhiều dừa nên trong từng bữa ăn gia đình dừa cũng góp mặt, tạo nên một hương vị riêng biệt hết sức đậm đà. Tôi thích nhất là món gà hầm nước dừa mà mẹ vẫn thường hay nấu mỗi khi đến ngày giỗ họ. Vị nước dừa thơm ngọt thấm đẫm trong thịt gà mềm. Cắn vào một miếng dã nghe thấy ngọt nơi đầu lưỡi. Rồi cái vị ngọt béo ấy đến chân răng cũng thấy đượm đà. Vị béo bùi của cơm dừa càng làm cho món ăn thêm phần hấp dẫn.
    Mỗi lần dọn vườn, trồng cây mới, một vài cây dừa cằn cỗi bị đốn hạ. Ông tôi thường lấy hủ dừa cho bà xào nấu. Từ hủ dừa, bà làm món gỏi thật ngon. Ăn một miếng dỏi dừa nghe sừng sực trong miệng mới cảm nhận được cái thi vị của chốn đồng quê yên bình, nghèo khó mà nghĩa tình biết bao nhiêu.
    Có lần, tôi hỏi ông tôi cây dừa có từ bao giờ mà trông nó cằn cỗi đến thế. Ông tôi trầm tư nhìn lên tán lá dừa cao. Lặng im một hồi lâu, ông kể cho tôi nghe câu chuyện về cây dừa ấy. Ông bảo, chính ông đã trồng cây dừa ở trước cổng nhà hơn 40 năm trước, lúc nước ta còn chiến tranh.
    Một lần ông về Gò Công xứ Tiền Giang thăm bác Sáu Cảnh, thấy nhà bác có giống cây dừa thấp, trái nhỏ mà nước uống rất thanh ngọt. Biết giống dừa quý ông bèn xin lấy một cây con đem về trồng. Hơn 40 năm qua, rễ dừa cần mẫn nuôi cây cao lớn, bất chấp ngày nắng ngày mưa. Cây đã cho ra hàng nghìn quả ngọt. Nhưng thật kì lạ, muốn cho bà con cùng có dừa ngon để uống, ông dành nhiều quả dừa già khô ươm giống mà không một cây nảy mầm. Bao nhiêu năm miệt mài, ông vẫn thể làm quả cây nảy mầm được.
    Ông bỗng dừng lại, ngước mắt nhìn lên tán lá dừa cao đang rì rào khua trước gió, khóe mắt ông rưng rưng. Ông lo lắng một ngày nào đó, cây dừa già kiệt sức đổ xuống thì sẽ không tìm đâu ra giống dừa quý như thế nữa.
    Phì phèo châm điếu thuốc, rít một hơi dài, ông tôi kể tiếp. Ngày giặc tiến vào làng, cả nhà đi sơ tán. Lúc ấy, cây dừa đã cao bằng chũm nước. Ra tới cổng ông còn ngoái trông. Cây dừa như hiểu ý người, cành lá khua khuẩy, sắc nhọn như những thanh gươm dựng tua tủa trên nền trời như muốn nói với ông hãy cứ yên lòng.
    Sáu tháng sau, giặc rút khỏi làng, cả nhà lại trở về, ông tôi phấn khởi lắm. Nhưng khi vừa tới con mương đầu làng, ông vô cùng sửng sốt, chân tay rụng rời. Trước mắt ông khung cảnh hoang tàn, sơ xác. Cả làng bị giặc đốt trụi không còn căn nhà nào nguyên vẹn. Căn nhà ông cũng bị giặc đốt cháy sạch trơn. Cả cây dừa nữa, cũng bị đốt cháy, tàu lá gãy gập xuống, vàng khô trơ ngọn.
    Ông tôi vô cùng đau đớn, cứ nhìn gốc dừa rũ rượi khóc. Bà tối khuyên mãi ông mới thôi. Nhờ ông cố công chăm bón, cây đừ ấy từ từ tươi xanh trở lại. Hai năm sau nó lại cho ra những đợt quả mới. Nhưng kì lạ thay, kể từ ấy, nước dừa thật ngọt, thật thơm. Tìm khắp Bến Tre cũng không có cây dừa nào lạ đến thế.
    Giờ đây, cây dừa đã cằn cõi lắm rồi. Tán lá của nó không cờn vươn dài như trước nữa. Màu lá cũng không xanh thắm mà hơi ngả vàng. Buồng quả chỉ lác đác vài quả nằm tít ở ngọn cao. Dưới gốc cây, từng cụm rễ trồi lên mặt đất khô cằn. Nhưng dáng dừa vẫn vươn cao, uy nghi như một vị dũng tướng canh giữ đất trời.
    Tôi đứng trước cây dừa, nghĩ về thuở xa xưa, lúc cây dừa còn bé xíu. Tôi nghĩ về quê hương rợp xanh bóng dừa. Trải qua bao gian khó, cây dừa vẫn kiên trung cùng con người. Đúng như nhà thơ Lê Anh Xuân từng viết:

    “Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
    Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
    Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
    Như dân làng bám chặt quê hương”.
    • Kết bài:
    Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dấu vết vẫn còn. Có thể ta không thù hận nhưng cũng chưa thể nào quên tội ác của kẻ thù đã gây ra trên quê hương. Chính trong thời bom đạn ấy, dừa lấy thân che chắn cho con người, lấy tán lá bảo vệ cho quê hương. Kẻ thù có thể làm thân dừa tổn thương nhưng không thể tiêu diệt được màu xanh của dừa, của đất. Từng lớp từng lớp dừa xanh cứ mạnh mẽ mọc lên như người dân Bến Tre không bao giờ chịu khuất phục:

    “Đất quê hương nát bầm vết đạn
    Đã nuôi dừa năm tháng xanh tươi
    Ôi có phải dừa hút bao cay đắng
    Để trổ ra những trái ngọt cho đời”.
    (Dừa ơi – Lê Anh Xuân)