Hầu trời – Tản Đà

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Hầu trờiTản Đà


    04.jpg
    Hầu trời

    I. Tìm hiểu chung
    1. Tác giả:

    Tản Đà sinh năm 1889 mất năm 1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu. Tản Đà là một thi sĩ mang đầy đủ tính chất “con người của hai thế kĩ” cả về học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương.
    Ông có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn học Việt Nam – gạch nối giữa văn học trung đại và văn học hiện đại.

    2. Tác phẩm: Hầu trời

    Thể loại: thất ngôn
    Xuất xứ: trong tập còn chơi (1921). Bài thơ ra đời những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau,…
    Bố cục: 3 phần
    Phần 1: giới thiệu về câu chuyện (từ “điêm qua …” đến “lạ lùng”)
    Phần 2: thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe (từ “chư tiên”… đến “chợ trời”)
    Phần 3: thi nhân trò chuyện với trời (từ “trời lại phê cho”… đến “sương tuyết”)
    Khái quát nội dung – nghệ thuật (ghi nhớ)
    Qua bài “hầu trời”, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân – một “cái tôi” “ngông”, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữ cuộc đời.
    Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật: thể thơ ngôn trường thiên kahs tự do, giọng điệu thoải mái, tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh.

    II. Tìm hiểu văn bản
    1. Giới thiệu câu chuyện:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,
    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
    Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

    Câu chuyện xảy ra vào thời gian “đêm qua” (đêm qua chẳng biết có hay không) gợi khoảnh khắc yên tĩnh, vắng lặng. Chuyện kể về một giấc mơ, nhưng tác giả khẳng định là thật: được lên cõi tiên (thật được lên tiên – sướng lạ lùng).
    Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng vui sướng – “thật được lên tiên – sướng lạ lùng”
    Điệp từ: “thật” (thật hồn! thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên…) nhấn mạnh tâm trạng và xúc cảm của thi nhân. Câu cảm thán bộc lộ cảm xúc bàng hoàng. Câu khẳng định dường như lật lại vấn đề: mơ mà như tỉnh, hư mà như thực:
    Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thực.
    Ngay khổ thơ mở đầu người đọc cảm nhận được một “cái tôi” cá nhân đầy chat lãng mạn, bay bổng pha lẫn với nét “ngông” trong phong cách thơ văn của thi nhân. Với cách vào chuyện thật độc đáo, có duyên đã làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn hấp dẫn.

    2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe:


    Niềm hưng phấn của nhân vật trữ tình khi đọc thơ và sự tán thưởng của mọi người chốn thiên môn.
    Trước khi đọc thơ:
    Khung cảnh: trời ngồi trên cao, chư tiên ngồi xung quanh, yên lặng; thi sĩ được mời ngồi trên ghế bành để đọc thơ.
    Nghi thức: thi sĩ uống trà, nhấp giọng trước khi đọc thơ; trời truyền lệnh mới được đọc.
    Khung cảnh miêu tả chi tiết, cụ thể. Từ đó khẳng định thêm tính chân thật của câu chuyện.
    Niềm hung phấn của nhân vật trữ tình khi đọc thơ.
    Được đề nghị đọc thơ, nhân vật trữ tình tức khắc đáp ứng: sự sốt sắng không muốn bỏ qua dịp tốt được chứng tỏ tài năng.
    Đọc liền một mạch từ văn vầng sang văn xuôi, từ văn chơi đến văn lí thuyết: nghệ thuật tăng tiến “…hết…sang”, “…hết…lại…”: tâm trạng say sưa, phấn chấn cao độ.
    Giọng đọc “ran cung mây”, khuấy động không khí thâm nghiêm ở thiên đỉnh và cuốn theo sự chú ý của tất cả mọi người.

    3. Thái độ của người nghe thơ:

    Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt đẹp như sao bang, văn hùng mạnh như mây chuyển, êm như gió thoảng, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết,…
    Mượn lời của trời để tự khen thơ văn của mình. Tác giả ý thức rất cao về tài năng, giá trị đích thực của mình. Đó là sự khẳng định bản ngã, cái tôi rất ngông, rất Tản Đà.

    4. Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng.

    Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
    Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
    Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
    Đọc xong một bài cũng vỗ tay
    Người nghe rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.

    5. Thi nhân nói về các tác phẩm của mình:

    Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
    Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
    Hai khối tình con làn văn chơi.
    Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết…
    Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh, có phần tự đắc…
    Qua cuộc đọc thơ cho Trời và tiên nghe, Tản Đà thể hiện ý thức rất cao về tài năng và tâm cũng là biểu hiện “cái ngông”: khẳng định tài năng văn chương thiên phú của mình, không thấy có ai là kẻ tri âm với mình ngoài Trời và các chư tiên.

    6. Thi nhân trò chuyện với Trời.

    Lời xưng danh:
    Thi nhân kể họ tên, quê quán:

    “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn.
    Quê ở Á châu về Địa cầu
    Song Đà núi Tân nước Nam Việt”

    Lời xưng danh đầy đủ, chi tiết, cụ thể, có tinh thần hiện đại (xưng tên trước họ sau). Cách xưng danh thể hiện ý thức cao về cá nhân, niềm tự hào dân tộc, chứa đựng tình yêu đất nước, quê hương sâu đậm.
    Tâm sự vơi Trời về nghề văn ở hạ giới.
    Thi nhân kể về cuộc sống: “thực nghèo khó”, làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ… người nghệ sĩ kiếm sống bằng nghề văn rất chật vật, nghèo khó vì “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”.
    Cuộc sống nghèo khó, túng thiếu. Thân phận nhà văn bị rẻ rung, coi thường. Ở trần gian ông không tìm dduocj tri âm, nên phải lên tận cõi Trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
    Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ phải có sự chuyên tâm với nghề, phải có vốn sống phong phú; sự đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi của hoạt động sáng tác “Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều/ Vốn liếng còn một bụng văn đó”.
    Tác giả cho người đọc thấy một bức tranh rât chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn, nhà thơ khác.
    • Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn văn này.
    Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân.
    Khát vọng thực hiện việc “thiên lương” cho nhân gian. Tản Đà ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ với đời, khát khao được gánh vác việc đời, đó cũng là một cách tự khẳng định mình.
    • Nghệ thuật
    – Cách kể chuyện đầy tính chất bình dân và giọng khôi hài, hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
    – Ngôn ngữ thơ chọn lọc tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ. Ngữ điệu câu thơ gần với ngữ điệu của lời nói thường.Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do… chất thơ gắn với cảm xúc của con người cá nhân.
    • Câu hỏi luyện tập:
    1. Cách vào đề của bài thơ gợi cho anh/chị cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?
    2. Việc xưng đầy đủ họ tên, quê quán của nhà thơ với trời cao cho ta thấy điều gì?
    3. Qua đoạn thơ kể lại chuyện Tản Đà đọc thơ cho trời và chư tiên nghe, anh/chị cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ?
    4. Chuyến “hầu trời” bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ nói được gì về bản thân cùng quan niệm mới của ông về văn và nghề văn.
    5. “Cái ngông” của Tản Đà trong bài thơ được hiểu như thế nào?
    – Hành động theo tiên lên trời, đọc thơ cho người nghe tự tin vào tài năng cảu mình.
    – Tác giả để cho trời và chư tiên hết lời ca ngợi thơ văn của mình.
    – Nhà thơ khảng khái và đường hoàng xưng đầy đủ tên họ, quê quán cảu mình với cả thiên đình.
    – Tác giả tự gán cho mình trách nhiệm nặng nề với thế gian: làm cho thiên lương ở hạn giới được hung thịnh.
    – Cái “tôi” ngông ý thức được tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.
    – Nằm trong mạch chảy của văn học dân tộc, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Nguyễn Tuân có những điểm chung, song với cá tính độc đáo của người nghệ sĩ, mỗi người vẫn giữ được nét riêng phân biệt.