Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh


    14.jpg

    I – Kiến thức cơ bản

    1. Tác giả

    Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, viết nhiều, viết hay về con người, cuộc sống ở làng quê, về mùa thu.

    2. Tác phẩm:

    2. Xuất xứ:
    Bài thơ ra đời năm 1977

    3. Thể loai: Thể thơ năm chữ

    4. Nội dung:
    – Những cảm nhận của nhà thơ trước sự chuyển biến của đất trời lúc sang thu.
    – Tâm trạng bất ngờ nhận được những dấu hiệu của mùa thu.
    – Tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng khi nhận ra mùa thu đã đến.
    – Những suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lí về con người và cuộc đời.

    5. Nghệ thuật
    – Khắc họa được hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, đặc sắc của thời điểm giao mùa hạ – thu ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
    – Sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ (bổng, phả, hình phép nhân hóa (sương chùng chình, sông được lúc dềnh phép ấn dụ (sấm, hàng cây đứng tuổi…).

    6. Ý nghĩa văn bản
    Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa.
    Ghi nhớ:
    Từ cuối hạ sang đầu thu, đât trời có những chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt. Sự chuyển biến này đã được Hữu Thỉnh gợi lên bằng cảm nhận tinh tế qua những hình ảnh giàu sức biểu cảm trong bài Sang thu.

    II – Luyện tập

    Nêu biểu hiện tâm trạng của nhà thơ trước vẻ đẹp đất trời lúc sang thu.

    Bài mẫu 1:
    Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh

    • Mở bài:
    Hữu Thỉnh thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta. Ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khuâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhàng. Thơ ông mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Sang thu là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ ấy.
    • Thân bài:
    Bài thơ đưa ta đến với cảnh đất trời Việt Nam khi sang thu, từ gần đến xa, với những nét rất gần gũi, thân thương:

    Bỗng nhận ra hương ổi
    Phả vào trong gió se
    Sương chùng chình qua ngõ
    Hình như thu đã về

    Mọi hình ảnh, hiện tượng đó của đất trời khi chuyển từ hạ sang thu mọi người đều biết, đều quen. Vậy mà đến bài thơ này của Hữu Thỉnh ta mới cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp êm ả, thanh bình của nó. Hương ổi, gió se, sương mỏng, mây nhởn nhơ bay, chim vội vã về phương nam, nắng vẫn rực vàng, mưa vơi dần, tiếng sấm bớt hẳn… những tín hiệu báo mùa thu về ấy sao mà thân thương, gần gũi, nao nao gợi nhớ một miền quê thời thơ ấu trong kí ức của mỗi chúng ta.
    Nhà thơ không viết “Thu sang” mà chọn tựa đề là “Sang thu” nghĩa là mùa thu chỉ mới bắt đầu. Từ “thu” làm bổ ngữ cho động từ “sang” gợi chủ thể cảm nhận sự chuyển mùa ấy là con người. Cách đặt tựa đề báo hiệu những cảm nhận tinh tế và riêng biệt về mùa thu.
    Hương thơm của những trái ổi chín trong vườn “vào trong gió se” tức là hương thơm bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, chứ không thoang thoảng. Nhà thơ vừa ngửi thấy mùi hương ổi, lại vừa cảm nhận được cái se lạnh của gió đầu thu. Hương thì đậm đà mà gió thì nhè nhẹ nên không gian rất đỗi nồng nàn.
    Sương thu thì “chùng chình”qua ngõ, nghĩa là nó cố ý nhởn nhơ, chậm chạp lại, quấn quýt bên ngõ xóm, đường làng hay quấn quýt, giao hòa cùng người ngắm cảnh? Hương ổi, gió se, sương thu là những kí hiệu làm nhà thơ giật mình nhận ra: “Hình như thu đã…”. Cảm xúc của tác giả vừa nhẹ nhàng, vừa bâng khuâng.
    Bằng sự tinh nhạy của tất cả các giác quan, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Mùa thu có “hươn gổi”, có “gió se” và làn sương mơ “chùng chình” trước ngõ. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt. Thu đến nhẹ nhàng quá. Nhẹ nhàng đến nỗi chưa hẳn tin đó là sự thật. Bởi thế, có thể thấy, đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến đắm say, cuồng nhiệt của nhà thơ.

    Cảm nhận của nhà thơ trước khoảnh khắc đất trời giao mùa:

    Sau giây phút bối rối, ngỡ ngàng nhà thơ bước ra với đất trời để “kiểm chứng” nỗi hoài nghi của mình. hực là, mùa thu đã “sang” rồi. Mùa thu đã vè khắp đất trời. Đây không phải là mùa thu đầu tiên trong đời nên sự hân hoan đã nhường chỗ cho sự đằm lắng, dịu nhẹ, khoan thai mà đón nhận:

    Sông được lúc dềnh dàng
    Chim bắt đầu vội vã
    Có đám mây mùa hạ
    Vắt nửa mình sang thu

    “Sông được lúc dềnh dàng” chậm chạp, rề rà, không vội vàng gì. Người đọc như được thấy mặt nước phẳng lặng của sông thu soi chiếu cánh chim vội vã bay từ khung trời chói chang của mùa hạ sang khung trời ấm áp của mùa thu. Có lẽ, vì luyến lưu bờ xinh bãi đẹp mà con dòng nước cũng không muốn trôi đi chăng?
    Những đám mây trên bầu trời cũng “vắt nửa mình sang thu” như chưa muốn rời xa mùa hạ nồng ấm. Đám mây lưu luyến lúc giao mùa được cảm nhận bằng tâm hồn tinh tế và trong trẻo. Và mùa hạ dần qua cũng với dần những cơn mưa rào, trả lại cho trời thu sắc xanh muôn thuở. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

    Những chiêm nghiệm của nhà thơ trước “mùa thu” cuộc đời:

    Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:

    Vẫn còn bao nhiêu nắng
    Đã vơi dần cơn mưa
    Sấm cũng bớt bất ngờ
    Trên hàng cây đứng tuổi”.

    Nắng ấm và mưa giông là những dấu hiệu đặc trưng của mùa hạ. Nay những dấu hiệu ấy tuy có vơi nhưng hãy còn rạo rực lắm. Hai từ “bao nhiêu” thể hiện sự tiếc nuối mênh mang của nhà thơ đối với màu hạ. Đối với nhà thơ, bốn mùa đều đẹp tươi. Mùa thu mang tới bao điều mới mẻ nhưng mùa hạ cũng lắm kỉ niệm ấm áp. Chia biệt cái cũ, đón nhận cái mới, ở giữ ranh giới ấy khiến cho tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ không khỏi ngậm ngùi.
    Hai câu kết vừa có ý nghĩa tả thực, lại vừa có ý nghĩa hàm ẩn. Ý nghĩa tả thực là tả hiện tượng sấm và hàng cây lúc sang thu. Còn ý nghĩa hàm ẩn mà nhà thơ gửi gấm ở đây có lẽ là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (sấm) đã bớt đi sự bất ngờ đối với những người từng trải (cây đứng tuổi). Đây là sự suy ngẫm của tác giả về nhân sinh, về quy luật của cuộc sống nhân nói về cảnh thiên nhiên đất trời sang thu.
    Rõ ràng, khi viết bài thơ này, Hữu Thỉnh đã bước vào tuổi trung niên, đã đi qua một thời trai trẻ trong chiến tranh nên những chiêm nghiệm của nhà thơ có sức khơi gợi cho mọi người về lẽ sống làm người: Ta hãy bình tĩnh mà đón nhận và giải quyết mọi vấn đề gặp phải trong cuộc sống.
    “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn
    • Kết bài:
    Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ linh hoạt, giọng thơ ngọt ngào, đằm thắm, nghệ thuật đan xen mieu tả và cảm xúc tự nhiên, hài hòa, bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Bài mẫu 2:
    • Mở bài:
    Mùa thu là một không gian trữ tình, thi vị nhất trong bốn mùa. Cảnh sắc thu gợi nhớ, gợi thương. Nhưng nếu như mùa thu dưới con mắt các thi nhân xưa với vẻ đẹp ước lệ với lá vàng rơi, gió hiu hắt thì đối với Hữu Thỉnh, mùa thu hiện ra mới lạ, gần gũi mà đầy tinh tế. Cảm xúc ấy được nhà thơ thể hiện rõ ràng qua bài thơ “Sang thu”
    • Thân bài:
    Ngay từ đầu tác giả đã khẳng định về thời gian cùa mùa thu qua tiêu đề: thời điểm giao mùa. Đó không phải là chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng cao, cũng không phải là cuối thu khi sắc trời đã nhuộm đỏ lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẫn vào trong gió. Đất trời chỉ mới chớm thu thôi, một khoảng khắc giao mùa nhẹ nhàng êm dịu đủ để con người giật mình ngỡ ngàng:

    “Bỗng nhận ra hương ổi
    Phả vào trong gió se
    Sương chùng chình qua ngõ
    Hình như thu đã về”

    Dựờng như hương ổi thơm dịu chỉ đang phảng phất đâu đây. “Hương ổi” ngọt ngào mà thuần khiết lòng ta chọt xán xang. Hiện lên trong tâm hồn ta hình ânh cùa quê hương, của xóm làng với những chiều đi hái trộm ổi, cái vị ngọt ngào, thanh thanh cứ đọng lại mãi nơi đầu lưỡi, tuy bị mắng nhưng kỉ niệm đó chẳng thể nào phai nhòa. “Phả” là động từ được sử dụng rât khéo léo để khẳng định sự xuất hiện của hơi thu. Cái cảm giác se lạnh để rồi thảnh thơi đón nhận một luồng khí thu mát rượi trong lành. Làn gió ấy từ lâu vẫn được coi như là hồn thu nơi đất Bắc.
    Tiếp đến, nhà thơ nhận ra làn sương sớm “chùng chình” nơi đầu ngõ. Nó không trôi đi mà như đang cố bấu víu để ở lại. Hình nahr :Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.
    Sau một thoáng bối rối, bồi hồi nhà thơ như bừng tỉnh: “Hình như thu đã về”. hai từ hình như biểu lộ hết sự hoài nghi và vui mừng, cuống quyt của tác giả khi nhận ra dấu hiệu mùa thu hiện rõ trong không gian buổi sớm. Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thịgiác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
    Để thực sự kiểm chứng điều thấy được cảm nhận được ấy, nhà thơ vội vã bước ra với không gian rộng lớn, đón nhận tất cả màu thu vào lòng:

    “Sông được lúc dềnh dàng
    Chim bắt đầu vội vã
    Có đám mây mùa hạ
    Vắt nửa mình sang thu”

    Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “đám mây vắt nửa mình”. Như thế, thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi” ,”gió se”, từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.
    Nhịp thơ nhanh và gấp cũng như hơi thở của mùa thu cũng bắt đẩu đập mạnh. Sông mùa này chẳng còn những dòng chảy xiết, đỏ quạnh phù sa của mùa hạ mà trong xanh hơn, trôi một cách “dềnh dàng” chậm chạp thong thả, cứ cố nán lại đợi chờ ai. Sông chờ nước mùa thu chăng? Hình ảnh thơ thật thi vị lãng mạn làm sao.
    Trái ngược với vẻ khoan thai của dòng sông là sự vội vàngvcủa những cánh chim trời bắt đầu di trú về phương Nam. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. Những cánh chim chiều không còn mãi miết rong chơi nơi chân trời tối mà bắt đầu “vội vã” tìm về tổ ấm. Có lẽ cũng bởi mùa đông sắp đến và mùa thu cũng là thời điểm để chúng đi tránh rét phương Nam. Những tín hiệu báo mùa về phản ngược nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu.
    Nhịp mạnh có hương ổi phả – chim vội vãì nhịp nhẹ có sương chùng chình – sông dềnh dàng. Một hiện tượng trái chiều mà ta vẫn thường thấy trong mỗi cuộc đổi thay. Phải chăng, những vận động trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống thế quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên? Cho nên thật thú vị, chính sự trái ngược kia tạo nên cái bản giao hường gợi cảm của đất trời thu. Nhưng những cảm nhận tinh tế về khúc giao mùa được thể hiện rõ nét nhất qua hình ảnh đám mây. Đám mây trời là dải khăn và nền trời thu chính là giá nâng chiếc khăn ấy. Đám mây kia có hai nửa thì một nửa bên nằm bên mùa hạ, một nửa kia thuộc về mùa thu. Tất cả gợi cho ta một vẻ đẹp liên tưởng về quá khứ của mùa hạ đầy sôi động. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.
    Sau những cảm xúc trước những biến đổi âm thầm của mùa thu, tác giả trầm ngâm suy ngẫm về những triết lý của cuộc đời:

    “Vẫn còn bao nhiêu nắng
    Đã vơi dần cơn mưa
    Sấm cũng bớt bất ngờ
    Trên hàng cây đứng tuổi”

    Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời. Nắng mùa hạ vẫn còn nồng nhưng không còn chói chang nữa. Những cơn mưa rào sầm sập đã vơi dần, sấm sét cũng ít đi. Chính vì vậy những hàng cây đã đứng tuổi không còn bất ngờ nữa nhưng hơn hết là thời gian đã giúp cho hàng cây quen dần với tiếng sấm.
    Những ý nghĩa triết lý chợt hiện ra rõ nét sau khi xuất hiện hình ảnh hàng cây đứng tuổi. Thời gian trôi qua nhanh và cuộc đời mỗi con người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi xa. Đó là cảm xúc trước sự biến thiên của thời gian. Tuy đã sang thu nhưng lòng “vẫn còn bao nhiêu nắng”, bao cơn mưa thở than nay cũng đã vơi dần.
    “Sấm” là những khó khăn, thất bại là những vang động bất thường trong cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” là những con người từng trải, có kinh nghiệm, họ sẽ vững vàng bước qua những tiếng sấm cùa cuộc đời. Từ đó ta hiểu rằng nếu ta biết dừng lại suy ngẫm ta sẽ chiêm nghiệm ra được nhiều điều. Thì ra mùa thu đâu chì có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là sự trường thành trong suy nghĩ trong tâm hồn.
    Đến đây, giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.
    Bằng một cách nhìn riêng, một lối tả riêng, thoát khỏi những ước lệ, Hữu Thỉnh đã miêu ti những chuyển mình tinh tế của mùa thu qua hương ổi, màn sương, cơn gió, dòng sông, bầy chim, đám mây, nắng, mưa, sấm, cây cối sang thu, hồn người cũng sang thu. Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tất cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.
    • Kết bài:
    Bài thơ “Sang thu” đã gợi trong ta những cảm xúc bâng khuâng, lòng yêu quê hương, đất nước dâng trào mãnh liệt. “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.