Phân tích bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu


    05.jpg

    I. Tìm hiểu chung
    1. Tác giả

    Xuân Diệu sinh năm 1916, mất năm 1985. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Xuân Diệu là thành viên của Tự lực văn đoàn.
    Xuân Diệu tham gia mặt trận Việt Minh từ trước cách mạng tháng tám. Ông hăng say trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

    Sự nghiệp sáng tác:

    Xuân Diệu là nhà thơ “mơi nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đem đến cho thơ mới một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
    Từ sau cách mạng tháng tám, thơ Xuân Diệu hưởng ứng vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự.
    Xuân Diệu là một cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, bền bỉ, dồi dào, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông xứng danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn.
    Năm 1996, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

    Tác phẩm tiêu biểu:

    Thơ: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960),…
    Văn xuôi: phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945),…
    Tiểu luận phê bình: Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (1981 – 1982), Công việc làm thơ (1985),…

    2. Tác phẩm: vộ vàng
    Xuất xứ:

    Vội vàng được in trong tập thơ thơ, xuất bản năm 1938, tập thơ đầu tay cũng là tập thơ khẳng định vị trí của Xuân Diệu – thi sĩ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
    Là một trong những bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt cảu cái tôi trong thơ mới nói chung, thơ Xuân Diệu nói riêng, đồng thời in dấu khá đậm hồn thơ Xuân Diệu và tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc đáo trong nghệ thuật thơ ông.

    Nội dung – nghệ thuật: (ghi nhớ)

    Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.
    Tư tưởng đó được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc và mạch chân lý, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.

    II. Tìm hiểu văn bản
    1. Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ (13 câu thơ đầu):


    Bài thơ mở đầu bằng 4 câu thơ năm chữ, kiểu câu khẳng định, động từ mạnh “tắt, buộc”, lối điệp từ ngữ “tôi muốn”, điệp cấu trúc để khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt: muốn ngự trị thiên nhiên, muốn đoạt quyền tạo hóa, muôn ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn tạ để giữ mãi hương sắc cho cuộc đời, gói gọn cảm xúc và ý tưởng chủ đạo của cả bài thơ:

    Tôi muốn tắt nắng đi,
    Cho màu đừng nhạt mất;
    Tôi muốn buộc gió lại,
    Cho hương đừng bay đi.

    Vẻ đẹp của “vườn trần”: đầy sinh lực, nguồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân được thể hiện ở 9 câu thơ tiếp theo:

    Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
    Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
    Này đây lá của cành tơ phơ phất;
    Của yến anh này đây khúc tình si,
    Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
    Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
    Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
    Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

    Bức tranh thiên nhiên có đủ hình ảnh quen thuộc: ong bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất. Tất cả hiện hữu có đôi, có lứa, có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt. Âm thanh “khúc tình si”: khúc nhạc tình yêu say đắm của chim yến, chim anh.
    Điệp từ “của”, điệp ngữ “này đây” kết hợp với nhịp thơ nhanh, phép liệt kê như bày ra sự phong phú bất tận cảu thiên nhiên, như mời gọi tác giả ngắm nhìn, say đắm.
    Tác giả đã “đốt cháy cảnh bồng lai đưa chúng ta về hạ giới” với vườn trần xinh đẹp, non tơ, trần đầy sức sống.
    Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng “cặp mắt xanh non”của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất:
    Tác giả khao khát tận hưởng hết vị ngọt ngào, hấp dẫn cảu mùa xuân: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Lối diễn đạt độc đáo, táo bạo. Tác giả dường như đã sử dụng hết tất cả các giác quan để đón nhận mùa xuân.
    “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” – câu thơ có dấu chấm ở giữa, mạch cảm xúc như đột ngột bị gãy làm đôi: nhà thơ đang “sung sướng” bỗng “vội vàng”, bỗng “hoài xuân” – nhớ “xuân”, tiếc xuân khi mà xuân mới bắt đầu. Xuân Diệu cảm nhận rất rõ những bước đi cảu thời gian trong hơi thở của đất trời, và cùng thời gian, những gì đẹp nhất của thời gian, những gì đẹp nhất của mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu rồi sẽ ra đi không trở lại.

    2. Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời (16 câu tiếp theo):

    Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
    Nhà thơ băn khoăn, hoài nghi, nuối tiếc khi nghĩ đến quy luật khắc nghiệt của thời gian. Xuân Diệu có một quan niệm mới mẻ về sự trôi chảy của thời gian:

    Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
    Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
    Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất;
    Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
    Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
    Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
    Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
    Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
    Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
    Những từ “xuân”, “tôi”, “tuổi trẻ” cứ trở đi, trở lại, hàng loạt những mâu thuẫn: “đương tới”“đương qua”; “còn non” – “sẽ già”; “lòng tổ rộng” – “lượng trời cứ chật”; “vẫn hoài xuân” – “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, tạo thành nỗi day dứt, ám ảnh, tiếc nuối khôn nguôi. Thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại. Xuân Diệu lấy quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy thời gian quý giá nhất của con người là tuổi trẻ để làm thước đo.
    Nỗi tiếc nuối thấm vào cảnh vật, tạo nên cái nhìn sầu não:

    Mùi tháng năm đều rớm vị chi phôi,
    Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…
    Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
    Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
    Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
    Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
    Hình ảnh thiên nhiên thay đổi, thấm đẫm vị chia phôi, ly biệt. Các tiếng “chẳng còn”, “rớm vị chia phôi”, “than thầm”, “tiễn biệt”, “phải bay đi”, “bỗng đứt tiếng”, “độ phai tàn”. Như day dứa vào trái tim vốn rất nhạy cảm với đời, yêu đời, không thể không suy nghĩ cái hữu hạn của đời người.
    Đoạn thơ sử dụng các phụ từ, và quan hệ từ: nghĩa là, mà, nhưng, làm chi,… có giá trị biểu đạt “lý luận của trái tim” tự đặt điều kiện, giả thiết, tự biện luận để rồi tự kết luận. Cuối cùng là lời than thở như tuyệt vọng: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa”.
    Nhận thấy thời gian là vĩnh hằng còn đời người là hữu hạn, Xuân Diệu cuống quýt vồn vã sống nhanh, sống vội vàng: “Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm”
    Xuân Diệu là thế đấy. Ông vừa khát khao đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng lại luôn cảm thấy bơ vơ và hoảng sợ, tuyệt vọng. Xuân Diệu không làm cho người ta tuyệt vọng mà bằng một con đường riêng: Xuân Diệu đã thốt lên tình yêu cuộc sống cho con người.

    3. Tâm trạng vội vàng tận hưởng những giây phút tuổi xuân cua rminhf giữ mùa xuân cuộc đời, vũ trụ (đoạn thơ cuối):

    Để sống thật ý nghĩa phải tận hưởng sự sống do mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu đem lại. Từ “tôi”sang “ta”, nhà thơ từ bỏ cái nhỏ bé chật hẹp chuyển sang cái rộng lớn phù hợp với việc tận hưởng cuộc sống:

    Ta muốn ôm
    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
    Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
    Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
    Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
    Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
    Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
    “Ta muốn ôm”
    đặt giữa dòng: sự lớn lao, trung tâm của tất cả.

    Điệp ngữ “ta muốn” kết hợp với các động từ sắp xếp theo ý nghĩa tăng tiến (ôm riết say thâu cắn) biểu thị sư khát khao chiếm đoạt sự sống một cách vồ vập, tham lam.
    Hình ảnh thơ: sự sống mơn mởn, mây mưa, gió lượn, cánh bướm đó là những hình ảnh tươi mới, đầy sức sống. Thiên nhiên tươi đẹp như một thiên đường mời gọi thi nhân.
    Các tính từ “chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy” cũng được sắp xếp theo hình thức tăng tiến, bộc lộ sự thèm khát tận hưởng cuộc sống mãnh liệt của một người trể tuổi.
    Nhịp thơ được tạo bỏi những câu dài, ngắn xen kẽ tạo nên nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.
    Câu thơ cuối thể hiện niềm khao khát dâng trào say đắm, muốn tận hưởng cuộc sống đến tận cùng cảm xúc. “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”
    Nhận xét: Đoạn thơ thể hiện chận thật tiếng lòng khao khát mãnh liệt của chủ thể trữ tình, khao khát sống để tận hưởng một thiên đường trên mặt đất có ý nghĩa nhân văn mới mẻ.
    • Nghệ thuật:
    – Sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và mạch lý luận.
    – Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.
    – Sử dụng ngôn từ; nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, cuồng nhiệt.
    • Câu hỏi luyện tập:
    1. Cảm nhận cảu anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
    Của ong bướm này đây tuần tháng mật

    Tôi không cờ nắng hạ mới hoài xuân.

    2. Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong bài Vội vàng của Xuân Diệu:
    Ta muốn ôm!

    Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

    Hãy chỉ ra những cách tân nghệ thuật của Xuân Diệu được thể hiện trong bài thơ. Hình ảnh nổi bật cảm nhận ấy?
    3. Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc quanh ta được tác giả cảm nhận và diễn tả một cách hấp dẫn như thế nào? Điều ấy thể hiện quan niệm gì của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc?