Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngư Bích

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngư Bích

    • Mở bài:
    Truyện Kiều là kiệt tác của nền văn học Việt Nam và thế giới. Tác phẩm đã phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, khi mà chế độ phong kiến đang suy thoái đã bộc lộ đầy đủ tính chất mục nát, vô nhân, và các tầng lớp nhân dân đã bị dồn đến bước đường cùng. Một trong những thành công lớn của Truyện Kiều là nghệ thuật miêu tả nội tâm đạt đến trình độ sắc sảo hiếm có của thiên tài nguyễn Du. Tài năng ấy thể hiện rất rõ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
    • Thân bài:
    Nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tứ Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ. Mụ vờ chăm sóc, thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục,sẽ gả cho người tử tế; rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới. Sau đoạn này là việc Kiều bị Sở Khanh lừa và phải chấp nhận làm gái lầu xanh. Đoạn trích nằm giữa hai biến cố đau xót. Đây là những biến cố giúp ta hiểu những bàng hoàng tê tái và sự lo âu về tương lại của nàng Kiều.
    Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, tâm trạng của Kiều chuyển từ buồn sang nhớ. Kiều nhớ người yêu, nhớ cha mẹ. Nỗi nhớ ấy được Nguyễn Du miêu tả xúc động bằng những lời độc thoại nội tâm của chính nhân vật. Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trang Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình:

    Buồn trông cửa bể chiều hôm
    Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
    Buồn trông ngọn nước mới sa
    1050. Hoa trôi man mác biết là về đâu?
    Buồn trông nội cỏ dầu dầu
    Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
    Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

    Đây là 8 câu thơ thực tả cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiên của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trang người: mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau. Trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trang để để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn,
    Cách sử dụng độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc qua điệp từ ” buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng: cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ bút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đòi ngang ngược.
    Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu, chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập chỉ có một từ láy tượng thanh ở câu cuối tạo nên nhịp điều, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận, Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng:

    Buồn trông cửa biển chiều hôm
    Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

    Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm gợi hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ. Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi đơn độc, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le loi cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia dinh, quê hương.
    Con thuyền gần như mất hút vẫn còn lênh đênh giữa dòng đời biết bao giờ mới đươc trở vẻ sum họp đoàn tụ với những người thân yêu:

    Buồn trông ngọn nước mới ra
    Hoa trôi man mác mác biết là về đâu?

    Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu. Thúy Kiều càng buồn hơn bởi nàng như nhìn thấy thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời, không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ bị vùi dập ra sao:

    Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
    Chân mày mặt đất một màu xanh xanh.

    Nội cỏ “rầu rầu”, chân mây mặt đất “xanh xanh” nhuốm cả không gian. Sắc xanh héo úa, mù mit, nhat nhoà trải dài từ chân mây đến măt đất. Còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng về cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhat không biết kéo dài đến bao giờ:

    Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

    Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lẽn ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc dời phong ba bão táp đã, đang âp đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công.
    Tất cả là đợt sóng đang rầm thét, rì rào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sơ, kinh hãi như ĩ dán vào vưc thẳm mốt cách bất lưc. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyêt vong. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là tượng nhìn qua tâm trạng theo quy luật “Người buồn có đâu bao giờ”.
    Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… góp phần làm nổi bật nỗi buồn nhiều bề trong tâm trạng Kiều. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh.
    Cảnh được miêu tả từ xa đến gần; màu sắc từ nhạt đến đậm; âm thanh từ tĩnh đến động; nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêng đổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng,yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.
    • Kết bài:
    Đoạn thơ kết thúc trong sự bấn loạn tột độ của tinh thần. Đất trời không có gì thay đổi, chỉ có trong lòng của nhân vật đang cuồng quay giông bão. Nguyễn Du dường như đã đi đến tận cùng thấu hiểu con người khi ông, bằng ngôn ngữ đã làm hiển thị được nỗi lòng và tâm tư của Thúy Kiều. Đoạn trích xứng đáng là một trong những đoạn thơ thành công nhất và khẳng định tài năng thi ca cùng tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du.