Phân tích cái “ngông” lạ đời của Nguyễn Công Trứ được thể hiện trong Bài ca ngất ngưởng

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích cái “ngông” lạ đời của Nguyễn Công Trứ được thể hiện trong Bài ca ngất ngưởng


    09.jpg
    Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ​


    • Mở bài:
    Nguyễn Công Trứ là nhà thơ nổi bậc trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX. Ông là người có tài, lại là một người của hành động thế nên chẳng bao giờ ông chịu bó gối ngồi yên. Trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông đưa những suy ngẫm của mình vào thơ ca hết sức điêu luyện, thể hiện cái khí phách ngang tàng, tài hoa của một tài thơ xuất chúng. Bài ca ngất ngưỡng là một thi phẩm nổi bậc của ông viết khi đã về hưu, vui thú an nhàn. Bài thơ thể hiện sâu sắc cái“ngông” lạ đời của Nguyễn Công Trứ trước cuộc đời:

    “Vũ trụ nội mạc phi phận sự
    Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
    (…………………………)
    Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
    Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

    • Thân bài:
    Ngay tựa đề bài thơ đã nói lên hết sự “ngất ngưởng” của tinh thần bậc dũng tướng tài danh. Phong thái ấy tiếp tục được triển khai ở khắp bài thơ.
    Nguyễn Công Trứ vốn là người kiêu ngạo và tài hoa. Thật hiếm thấy trong nền thơ và lịch sử một người đa tài, đa nghệ và ngạo đời đến thế. Ông không những giỏi trong việc điều binh trị nước, đánh đông dẹp bắc, tiêu trừ thổ phỉ, khai hoang lập đất mà tài thi ca cũng vào hạng xuất chúng, thu về nhiều thành tựu. Ông lại là người tận trung tận hiếu với đất nước. Cũng là người hết sức mê chơi. Bởi thế mà trong ông luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn khó giải bày. Cuộc đời cũng thăng trầm không ít.
    Mở đầu bài thơ, ông nói lên cái tình cảnh gian nan của ông:

    “Vũ trụ nội mạc phi phận sự
    Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”.

    Trong trời đất này, không có chuyện gì không phải là của ta. Nghĩa là trời đất này ở trong tầm tay của ông. Việc của trời đất cũng là việc của ông. Câu thơ thể hiện cái chí kinh bang tế thế của người làm trai của thời đại. Từ đó, làm hiện lên hình bóng lẫm liệt, phi thường của bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, mắt dõi trong bốn phương tám hướng, thâu tóm cả sơn hà.
    Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn nhận lấy cái giới hạn của cuộc đời. Ý tứ vừa kín vừa hở như tự giễu cợt mình. “Vào lồng” là vào khuôn phép của triều đình. Tuy có quyền có chức nhưng chính nó lại là những ràng buộc chật hẹp, tù túng trái với sở tính của ông. Làm quan là để phục vụ cho dân, cho nước, đem cái tài mà tranh hùng với thiên hạ, thỏa chí tang bồng. Thế nhưng, quan trường nhiễu nhương, trắng đen khó tường. Lại thêm nguyên tắc, điều luật chặt chẽ. Đâu thể tự ý mà làm. Đâu thể thấy điều lợi cho muôn dân mà tự ý thực hành điều lợi ấy được. Cho nên, sự “vào lồng” của ông Hi Văn có nghĩa là chấp hành cái ràng buộc của quan trường là một điều miễn cưỡng. Bởi vì lẽ đó, cuộc đời thăng trầm, không sao kể siết:

    “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
    Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
    Lúc bình Tây cờ đại tướng,
    Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.

    Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ haih. Nhưng dù sao, ý thơ vẫn nổi rõ lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới những cái mốc son chói lọi của đời mình. Dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng nhưng hết sức rõ ràng.
    Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa, đứng đầu cuộc ứng thí đâu phải chuyện thường đâu. Rồi làm quan đến chức Tham tán quân sự. Lại đến khi làm Tổng đốc Hải An, một mình đứng đầu một tổng đâu dễ gì có. Khi quân tình loạn lạc, ông lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta), uy thế vang dậy. Sau lại về làm Phủ Doãn Thừa Thiên.
    Những danh hiệu và chức vị cao quý tột bậc ấy là điều mơ ước của biết bao người. Đời người chỉ cần một trong những vinh vang ấy thôi cũng đủ tự hào lắm rồi. Thế mà, Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ. Tất cả vì dân vì nước. Được tin cẩn thì nhận lấy nghĩa vụ. Công việc đến tay mình thì làm. Cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức.
    Với ông, công danh phú quý nào có xá gì. Người tài năng như ông đạt được danh vọng cũng không hề khó. Ông không xem đó là cái cần đạt, không là mục đích đi đến của khát vọng và hành động. Ông luôn tâm niệm, làm trai là phải vì đất nước mà tận trung tận hiếu. Nam, bắc, đông , tây tây vùng cho thoả chí tang bồng. Cả cuộc đời ông nào giữ lại gì cho riêng ông. Ông chỉ giữ lại cho mình cái tình yêu cuộc đời thắm thiết và tình yêu cái đẹp bình dị mà đắm say. Đối với ông, sống đêpj đẽ, sống cao thượng, sống đúng nghĩa với bản thân mới là cái cần cố gắng.
    Bằng mấy lời tổng kết về cuộc đời, Nguyễn Công Trứ thể hiện sâu sắc cái tài năng phi thường, cái chí khí ngang tàng, cái “ngông” tài hoa, khác thường của mình. Suốt cuộc đời ông vừa làm việc vừa rong chơi. Chơi mà không quên nghĩa vụ với muôn dân, đất nước. Làm mà cũng không quên hưởng thú thanh nhàn và tiêu khiển. Bởi thế, hễ có thời gian là ông đi chơi. Mà ông chơi cũng bạo lắm. Ông thích chơi “ngông” với đời:

    “Đô môn giải tổ chi niên,
    Đạc ngựa bò vàng đeo nhất ngưởng.
    Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
    Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
    Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
    Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.

    Lúc còn ở quan trường, vì giữ lễ mà có chút kín kẽ. Khi đã “giải tổ chi niên” rồi, ông không còn ngại ngần gì nữa. Ông làm những trò khác thường mà người khác không dám làm hoặc không nghĩ đến. Người giàu sang thì cưỡi ngựa, áo quần sang trọng. Còn ông, dù là vị đại quan về hưu, nhưng lại thích cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa. Người đời bảo ông khác người, kiêu ngạo thái quá. Có kẻ cho là ông đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế. Ông cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Phải đâu ông muốn khoe mình hay gây sự chú ý bằng cái kì quặc. Ông muốn thể hiện cái ý riêng của mình, sống cha và nchân thật giũa cuộc đời phàm tục và kín đáo nhở nhân thế về quan điểm sống, cách thức sống ý nghĩa đấy thôi.
    Xưa Lão Tử cưỡi trâu xanh đi về núi. Nay Nguyễn Công Trứ cưỡi bò vàng là muốn làm theo người xưa đó. Ông cười cho cái sự đời nhiễu nhương của quan trường, miệng đời gian trá. Lòng người vốn có nhiều u uẩn, chỉ nhìn thấy cái hình mà không nhìn thấy cái ý. Sự ngạc nhiên của người đời khiến cho ông thích thú. Cưỡi ngựa hay cưỡi bò đâu có gì khác biệt. Có khác chăng là bởi từ cái nhìn của con người mà thôi. Đôi mắt trần tục làm sao thấy được tấm lòng của bậc thánh nhân.
    Chỉ rõ bản chất ấy, ông cảm khái câu thơ ngất ngưỡng:

    “Kìa núi nợ phau phau mây trắng.
    Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”.

    Nguyễn Công Trứ đã cố tạo ra cái mâu thuẫn giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Bên ngoài tục mà tiên. Bên trong tiên mà lại tục. Rồi sau đó, ông lại phủ nhận luôn cái ẩn ý của mìnhC. Cưỡi bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau. Cụ cười mình là: “tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”. Kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì chính là các cô ả đầu. Hình thức đã không đúng mực, lại còn bất kính. Lên chùa lễ phật tát phải trang nghiêm, kính cẩn. Ở đây, ông dẫn cả cô đầu, vừa nhếch nhác lại vừa ồn ào chẳng ra gì. Thế nhưng, Bụt không giận, không quỏ trách mà còn cười độ lượng theo ông.
    Dĩ nhiên, khi đến chùa, cụ đâu có lễ Phật. Cụ cho bàyà bày tiệc ca hát. Một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc vì biết tính và nể uy cụ mà làm lơ đi. Đâu phải Nguyễn Công Trứ bất kính với Phật. Cụ muốn mang đến đây cái triết lí nhân sinh thâm thúy của muôn đời. Phật ở tại tâm. Tâm có phật thì phật chứng nhận. Tâm không có phật thì dù thành kính đến mấy cũng vô ích mà thôi:

    “Được mất dương dương người thái thượng,
    Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
    Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
    Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.

    Cụ được tất cả tục lụy mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân. Đối với cụ, làm người thì phải tận hiến cho đời. Đã tận dâng, tận hiến rồi thì lời khen chê, cái được mất phỏng có ý nghĩa gì nữa đâu. Cái cốt là tìm thấy niềm vui trong sạch ở cõi đời này. Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê… Tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng.
    Câu thơ ngắt nhịp như tiếng phách tiếng đàn. Tiếng dài thanh thoát, cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần. Âm điệu thênh thang, bay bổng tung lên không trung như gió thổi trời cao. Tiếng ngắn rộn ràng, dìu dặt như nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng. Rồi tất cả dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh trong tiếng tùng mãn cuộc. Chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình:

    “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
    Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
    Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.

    Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn. Mặc dù câu đó chỉ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình

    “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
    Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

    Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần. Mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tùy ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc. Niêm luật tự do, đối không bắt buộc. Âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ vừa bi thương vừa hùng tráng lại như cười cợt, trêu đùa với đời.