Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

    Bài làm:

    Mở bài

    Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) là một thành công xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi được rút từ tập truyện Tây Bắc (giải thưởng của hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955). Tác phẩm gồm hai phần viết về hai chặng đời của nhân vật Mị và A Phủ. Chặng đời thứ nhất của Mị và A Phủ khi ở Hồng Ngài làm nô lệ cho nhà thống lý Pá Tra và chặng đời thứ hai Khi Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa, hai người trở thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ngộ Cách mạng, trở thành du kích chiến đấu bảo vệ bản làng.

    Thân bài

    Xây dựng hình tượng nhân vật Mị là một thành công của Tô Hoài khi viết về cuộc đời của những người phụ nữ miền núi dưới ách áp bức của giai cấp thống trị tàn bạo. Từ một cô gái mang thân phận nô lệ tối tăm, Mị đã vươn lên ánh sáng tự do với sức sống tiềm tàng vô cùng mạnh mẽ. Mị chính là một điểm sáng đặc biệt trong truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ. Cuộc cuộc đời, số phận và sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị là hình tượng điển hình cho một thế hệ phụ nữ miền núi Tây Bắc từ thân phận của một nô lệ từ quá trình đấu tranh tự phát đến từ gíac vươn tới ánh sáng của tự do của cuộc đời mới với một sức mạnh mạnh mẽ.
    Hoàn cảnh của nhân vật Mị:
    Mị vốn xuất thân con nhà nghèo, đẹp người, đẹp nết lại có tài thổi sáo rất hay. Có bao người để ngày đêm thổi sáo đi theo Mị ngày đêm. Với nhan sắc và tài năng ấy, cuộc đời Mị hứa hẹn một tương lai tươư sáng. Nhưng chỉ vì món nợ truyền kiếp từ đời trước mà cuộc đời Mị đã chuyển hướng. Cha Mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền phải vay nợ nhà thống lý, bố của Thống Lý Pá Tra bây giờ. Đến khi mẹ Mị chết, bố Mị đã già mà vẫn chưa trả hết nợ. Bởi thế, Mị đã bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí.
    Từ một cô gái trẻ trung, yêu đời, Mị đã biến thành một con người hoàn toàn khác. Lúc nào mặt Mị cũng buồn rười rượi. Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Cô chính là nạn nhân của giai cấp thống trị. Bọn chúng đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân dựa vào cường quyền và thần quyền để đàn áp bóc lột.
    Cuộc sống bế tắc của Mị khi về làm dâu nhà Thống lí và sức mạnh phản kháng đầu tiên:
    Ngay từ khi Mị bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã có sự đấu tranh dù chỉ là tự phát. Mị phản kháng một cách yếu ớt và bất lực. Mị khóc tới hàng tháng trời vì khổ đau và buồn bã. Mị đã có lần tìm vào rừng hái lá ngón tự tử để chấm dứt sự sống ấy. Nhưng vì thương cha mà Mị không thể chết và đành chấp nhận quay trở lại nhà thống lí, tiếp tục cuộc đời của một nô lệ.
    Mị Sống buông xuôi, nhẫn nhục chịu đựng như thế qua bao tháng ngày. Tinh thần phản kháng cũng dần mất đi trong Mị. Cô biết rằng, càng phản kháng thì càng thêm đau khổ hơn. Sức mạnh của cường quyền và thần quyền quá lớn đã giam hãm Mị trong bóng tối đau thương.
    Đến khi cha chết, Mị cũng không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen rồi. Bây giờ Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa của nhà thống lí. Cuộc sống của Mị lúc này con khổ nhục hơn kiếp sống trâu, con ngựa. Bởi con ngựa làm việc còn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ. Còn với Mị (và cả những người đàn bà trong nhà thống lí) thì không có lúc nào được nghỉ ngơi. Đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc cả đêm, cả ngày, cả cuộc đời.
    Mị làm dâu nhà thống lý nhưng chẳng khác nào đang ở trong địa ngục giữa trần gian. Nơi ở của Mị là một căn buồng nhỏ tăm tối. Nơi Mị thường nằm kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ nhỏ như một lỗ vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài và lấy ánh sáng. Lúc nào trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, mờ mờ không biết là sương hay là nắng.
    Với Mị, giờ đây không còn khái niệm về không gian và thời gian, không còn biết là mùa mưa hay mùa nắng, là sáng hay chiều. Mị tồn tại vô tri, vô cảm như một cái xác sống. Không còn một ai để ý đến việc Mị sống chết thế nào nữa. Kể cả những người ở cùng Mị, họ cũng không cần biết Mị vui hay buồn bởi họ cũng khổ đau không kém gì Mị.

    Sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân:

    Nhưng trong con người tưởng chừng như đã chết của Mị vẫn âm ỉ một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có cơ hội là nó bùng cháy lên. Cơ hội ấy đã đến vào một đêm mùa xuân, ngọn gió xuân đã thổi bùng ngọn lửa đã âm ỉ cháy từ lâu trong Mị.
    Ngày tết về trên chôn Hồng Ngài, núi đồi khoe sắc thắm. Khắp các bản làng ai ai cũng vui đón tết. Ngày Tết Mị cũng uống rượu. “Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát”. Hành động đó của Mị phải chăng là dấu hiệu cho “một sự nổi loạn” sau một thời gian dài bị đè nén khủng khiếp tưởng chừng như không còn tồn tại. Hay đó chính là sự thức tỉnh của ý thức về quyền làm người, quyền được sống đã trỗi dậy mạnh mẽ của một con người bị áp bức đến cùng cực. Trong cảm giác ngất ngây của men rượu cùng với âm thanh của tiếng sáo gọi bạn tình lửng lơ bên ngoài đường đánh thức trái tim tưởng như đã nguội lạnh của Mị. Trái tim Mị thổn thức những giai điệu cuộc sống. Cảm giác ấy giúp Mị nhận ra chính mình vẫn còn tươi trẻ mà bấy lâu cô đã quên lãng hoặc không còn nhớ đến. Lần đầu tiên sau bao năm, Mị nhận thấy mình vẫn còn trẻ. Lần đầu tiên, Mị muốn đi chơi., muốn bước ra bên ngoài.
    Từ suy nghĩ đến hành động, Mị bỏ thêm mỡ vào đĩa dầu thắp sáng ngọn đèn, quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa và chuẩn bị đi chơi. Mị quên hết những khổ đau và sự sợ hãi để bước tới. Có thể Mị cũng nghĩ tới hình phạt mà mình sẽ nhận lấy bởi hành động liều lĩnh này nhưng cô đã bất chấp. Tiếng gọi của cuộc đời say mê khiến cô phút chốc quên đi nghịch cảnh tối tăm của mình.
    Đúng lúc sự sống trong Mị trỗi dậy mạnh mẽ nhất thì bị A Sử chặn đứng một cách phũ phàng. A Sử như một con thú tàn nhẫn trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xóa xuống, A Sử quấn luôn tóc Mị lên cột. Thế nhưng, ngay cả trong hoàn cảnh đau đớn như vậy sức sống tiềm tàng trong Mị vẫn không bị dập tắt. Cô không hề để ý đến hành động tàn bạo và nỗi đau trên thân xác. Cô vẫn cứ hướng theo tiếng sao réo rắt trên núi trên đôi. Cả đêm ấy Mị sống trong ảo giác. Tâm hồn cô vẫn đi theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.
    Như một quy luật tự nhiên, sức sống tiềm tàng ấy đã một lần bùng lên thì không một sức mạnh nào có thể dập tắt. Nó vẫn âm thầm cháy để rồi lại bùng lên dữ dội vào một đêm mùa đông năm sau.
    Ban đầu khi nhìn thấy A Phủ bị trói Mị không có cảm giác thương xót bởi tâm hồn cô đã nguội lạnh. Dù A Phủ có là cái chết đứng đấy cũng thế thôi, nhưng khi Mị nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ thì Mị mới bắt đầu nghĩ. Mị nhớ lại cuộc đời mình. Mị nhớ lại lúc Mị bị A Sử trói đứng vào cột. Mị so sánh hai cái chết và Mị nghĩ đến việc chết thay cho A Phủ. Nhưng Mị cũng không khỏi cảm thấy lo sợ. Khi tình thương yêu người đồng cảnh chiến thắng nỗi sợ hãi, Mị đã hành động một cách táo bạo. Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ. Như vậy việc Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ cũng chính là việc Mị tự cắt sợi dây trói của cường quyền và thần quyền để giải thoát cho mình.
    Tô Hoài đã rất thành công khi nhìn thấy sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị. Qua đó, ông thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi, tố cáo quyết liệt những thế lực chà đạp con người, đồng thời khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc.
    Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình.

    Kết luận

    Vợ chồng A Phủ đã thành công trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức tàn bạo của giai cấp thống trị. Ở họ, dù bị đày đọa đến tê liệt tinh thần những vẫn tiềm ẩn một sức sống tiềm tàng, một sức mạnh phản kháng vô cùng mạnh mẽ. Đồng thời, tác phẩm cũng chứng tỏ tài năng bậc thầy của Tô Hoài trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật cùng sự am hiểu về niềm đồng cảm sâu sắc của nhà văn đối với người dân nghèo miền núi đặc biệt là phụ nữ.