Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão

    Bài làm:

    • Mở bài:

    Phạm Ngũ Lão là một nhận vật lịch sử có công lớn trong cuộc kháng chiến cống Nguyên – Mông, được mệnh danh là “Phúc tướng” của đời Trần. Con người ấy ckhis khái, chan hòa và luôn chia ngọt sẻ bùi với quân sĩ của mình. Ông còn là người văn võ toàn tài. Văn thơ để lại tuy ít nhưng thể hiện mạnh mẽ hào khí một thời oanh liệt của dân tộc. Thuật hoài là bài thơ thể hiện chí nam nhi của người trai thời loạn, muốn vươn tới chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ.

    Thuật hoài
    Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
    Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
    Nam nhi vị liễu công danh trái,
    Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

    Dịch nghĩa

    Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
    Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
    Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
    Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.​

    • Thân bài:

    Bài thơ được sáng tác khoảng cuối năm 1284 khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên đến gần. Trước thời khắc trọng đại của lịch sử, người anh hùng nhìn nhận lại bản thân, củng cố sĩ khí, chuản bị cho những cuộc chiến ác liệt bảo vệ biên cương bờ cõi. Có thể xem bài thơ Thuật hoài là một bản “phê bình” trung thực nhằm nâng cao ý chí chí chiến đấu, kiện toàn bản thân của dũng tướng Phạm Ngũ Lão.
    Thời đại ra đời của hào khí Đông A, vua tôi tiến sĩ dân đồng sức đồng lòng chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nội dung chủ đạo của nền văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X- XIV là nội dung yêu nước. Tâm lược Hịch tướng sĩ văn vang dậy núi sông của Trần Hưng Đạo, khúc ca khải hoàn đại thắng Phò giá về kinh của Trần Quang Khải, áng văn vô tiền khoáng hậu Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, … và cả trong lời Tỏ lòng của kẻ làm trai thời loạn Phạm Ngũ Lão là những áng văn bất hủ, có sức mạnh khơi bừng sĩ khí đến muôn đời. Tâm thế ấy, sĩ khí ấy được thể hiện ngay ở hai câu thơ đầu:

    Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
    Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.

    (Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
    Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu)​

    Bài thơ mở ra hình ảnh người tướng sĩ “hoành sóc” (cầm ngang ngọn giáo) bảo vệ non sông, đất nước. Đó là hình ảnh một con người có tầm vóc kì vĩ, hiên ngang, hùng dũng phi thường. Con người này ý thức được trách nhiệm, trọng trách của mình là bảo vệ quê hương đất nước. Kích thước ngọn giáo đo bằng nhiều chiều dài nọn sông làm nên tầm vóc vĩ đại của người tráng sĩ vệ quốc.
    Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kì vĩ tráng lệ, vừa mang không gian tầm voc giang sơn vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỳ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” (dẹp giặc Nguyên) ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chũ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vầng thơ cổ kính trang nghiệm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
    Câu thơ có một không gian rộng lớn, bát ngát mênh mông, trải khắp, mở ra theo chiều rộng “non sông”. Thời gian trải dài mà vẫn xác thức cụ thể không phải chốc lát mà đã “mấy thu rồi”. Không thời gian ấy càng làm nổi bật hình ảnh con người. Tư thế hiên ngang tầm vũ trụ và con người kì vĩ như át cả không gian bao la

    Tam quan tỳ hổ khí thôn Ngưu
    (Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu)​

    Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho quân đội nhà trần nhưng đồng thời nói lên sức mạnh của cả dân tộc. Biện pháp so sánh và cường điệu phóng đại đã được sử dụng để khẳng đinh sức mạnh của ba quân. Sức mạnh của khí thế “sác thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo ( tỷ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận, không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn nổi.
    “Khí ngôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng trí nuốt cả sao Ngưu, lấn át và làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu.
    Biện pháp tu từ thậm xứng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hồ khí Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hồ …” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo. Không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của quân đội quân “sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà còn là khơi nguồn cảm hứng thơ ca. Hình ảnh ấy tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc.
    Mối quan hệ giữa cá nhân anh hung và cộng đồng anh hung làm nên sức mạnh thời đại.
    Hai câu thơ cuối:

    Nam nhi vị liễu công danh trái,
    Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

    (Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
    Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu)​

    Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng “phá cường địch, báo hoài ân” (Trần Quốc Toản) – “ thân này gói trong da ngựa, ta cũng cam long” (Trần Quốc Tuấn) … Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc của đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sách ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời tam Quốc.
    Công danh đó chính là cái đạo lập thân của kẻ sĩ thời phong kiến. Lập công để lại sự nghiệp và lập danh để lại tiếng thơm, là nghĩa vụ với dân, với nước. Xem công danh là cái “nợ” không phải là tư tưởng của kẻ háo danh mà là suy tư về chí làm trai, trách nhiệm làm trai ở trên đời.
    Với đấng nam nhi, công danh là cái chí, khát vọng làm nên sự nghiệp lớn. Sự khẳng định tài năng và cống hiến, đưa con người thoát khỏi lối sống tầm thường, ích kỉ sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.
    Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Nói cách khác cái tâm thể hiện nỗi thẹn…

    Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu
    (Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)​

    Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Ông thẹn bởi vì so với bậc quân sư kia mình chưa có cái gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu thực chất là lời suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo.
    Thẹn còn được hiểu là cách nói chuyện khát vọng hoài bão muốn sách với Vũ hầu. Thẹn với Khổng Minh – Gia Cát Lượng không phải lỗi thẹn của sự tự ti, hoặc cảm thấy sự khiêm tốn mà là khát vọng mãnh liệt. Vì hiểu rõ ý nghĩa sống còn của kẻ làm trai trong thời loạn loạn là phải phải gắn mình với vận mệnh đất nước. Nỗi thẹn ấy làm con người thấp bé đi mà góp phần nâng cao nhân cách gắn mình với vận mệnh đất nước.
    • Kết bài:
    Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn, Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Trong bài Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là lỗi thẹn có giá trị nhân cách, nâng cao con người vươn đến ánh sáng.