Phân tích vẻ đẹp tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai - truyện Làng của Kim Lân

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích vẻ đẹp tình yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai

    • Mở bài:
    Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Làng là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn trong giai đoạn trước năm 1954. Tác phẩm khắc hoạn đậm nét tình yêu làng, yêu nước thiết tha của nhân vật ông Hai, một lão nông hiền lành, chất phác. Qua nhân vật ông Hai, người đọc cũng nhạn rõ những chuyển mới của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp: yêu quê hương, đất nước, căm thù kẻ thù xâm lược, đứng về phía cách mạng và quyết tâm bảo vệ cuộc sống.
    • Thân bài:
    Điều đầu tiên mà ta cảm nhận điiợc ở ông Hai là tình yêu làng xóm, yêu quê hương thiết tha. Có thể nói cái làng Chợ Dàu gắn bó như máu thịt, như một phần cuộc sống của ông. Tác giả đã để cho ông Hai bộc lộ tình yêu đó một cách nồng nhiệt, rất riêng mà cũng rất giống với những người dân lao động Việt Nam vốn sống với những hình ảnh làng xóm quê hương từ tấm bé. Song tình yêu làng cùa ông không bảo thủ mà biến chuyển theo dòng chảy thời đại. Nó luôn đổi mới hợp lý, sâu sắc, rất quyết liệt và cũng rất đúng với rung động thật sự từ tấm lòng ông.
    Trước cách mạng tháng Tám, lúc còn ở làng, ông Hai thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông: “ ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm”. Lời nói ấy thể hiện một sự chân thành, một tỉnh cảm sâu kín tận đáy lòng ông. Yêu làng, ông yêu tất cả những gì của làng ông, yêu cả những cái mà mình đã khổ sở vì nó. Làng và ông là một, là máu thịt và tinh thần, là hòa hợp nhát thể, khó mà tách ra được.
    Kim Lân đã xây dựng nhân vật ông Hai bắt đầu là như thể vừa để phản ánh thực tế về những người nông dân dưới xã hội mù mịt đen tối, vừa khẳng định ý nghĩa quan trọng của ánh sáng cách mạng tháng Tám. Cách mạng tháng Tám thành công đem lại sự đổi mới quyết định đối với mỗi tâm hồn, với tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam, trong đó có ông Hai. Giờ đây, ông không còn khoe cái lăng cụ Thượng, cái sinh phần kia nữa. Ông chỉ khoe về sự giàu có, trù phú của làng ông với cái chòi phát thanh cao nhất với đường làng lát đá xanh mà trời mưa bùn không dính đến gót chân. Đặc biệt, oogn yêu nhất là cái tinh thần của người làng ông: hăng hái và yêu cách mạng.
    Với cách miêu tả cụ thể, chi tiết, ngôn ngữ chất phác, Kim Lân đã mở ra trong lòng ta một tình yêu làng mãnh liệt đang cuộn trào trong ông Hai. Cảnh vật xóm làng đã in đậm trong trái tim ông, như đang trỗi dậy, hiện về rõ mồn một trước mắt. Tình cảm ấy thật đơn sơ mà đáng quý biết bao. Qua lời kể của ông Hai, làng Dầu hiện lên thật tươi đẹp, ấm no, bình yên, gần gũi. Nó càng đẹp hơn hết dưới con mắt cùa ông Hai. Có lẽ vì thế nên mỗi khi kể chuyện về làng, ông lại say sưa, háo hức lạ thường, thậm chí chẳng để ý xem người ta có nghe mình nữa không.
    Mỗi khi nghĩ về làng, “hai con mắt ông sáng hẳn, lên cái mặt biến chuyển hoạt động”. Chỉ bằng một câu ngắn gọn, nhà văn đã gợi cho chúng ta tình cảm thiêng liêng mà ông Hai dành cho làng thật sâu sắc, thật thắm thiết. Tình yêu ấy đã khắc sâu trong tim ông và trở thành một khối tình nóng bỏng luôn ủ ấm tâm hồn ông. Dù ở nơi tản cư, ông luôn mong muốn được trở về sống với làng xóm, quê hương. Vì thế khi nói chuyện về làng, ông vui vẻ hoạt bát hẳn lên. Dường như một nguồn sinh lực nào đó đang lan tỏa trong người khiến ông quên hết xung quanh để kể về cáị làng ấy. Phải chăng, nguồn năng lực đó là tình yêu làng đắm say tha thiết?
    Tình yêu làng đang trào dâng như sóng và trờ thành một niềm cảm hứng mãnh liệt trong ông. Bằng cách để nhân vật tự kể về mình, nhà văn đã giúp ta hiểu được phần nào tâm trạng của ông Hai. Niềm vui sướng của ông khi kể chuyện làng lan cả sang trang sách, len lỏi vào lòng người đọc. Không những vậy, ông còn tự hào về làng mình có những đường hầm, hào liến tiếp, có những ụ, những giao thông , những buổi tập quân sự của các cụ phụ lão cứu quốc. Điều đó thể hiện một tình cảm sâu kín thấm vào da thịt ông rất giản dị mà cao quý.
    Tình cảm đó càng được nhân lên gấp bội khi ông nghe tin làng chợ Dầu đi Việt gian. Trước cái tin dữ ấy “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Tưởng như đến không thở được…”. Chỉ bằng một chi tiết nhỏ, Kim Lân đã thể hiện thành công sự đau khổ đang giày vò, giằng xé tâm can ông Hai.
    Nhà văn rất tài tình khi xây dựng, dâng tình tiết truyện lên đến kịch tính, đưa câu chuyện lên đỉnh cao xung đột tâm lí để bộc lộ đáy sâu tấm lòng của ông Hai. Biết tin sét đánh này, ông nghẹn ngào, choáng váng như sét đánh ngang tai, nói không ra lời như một cái gì đó nuốt không nổi. Suy cho cùng, nỗi đau đóm ấy cũng xuất phát từ tình yêu làng của ông mà ra. Bởi vì yêu làng quá, tin làng quá nên ông mới phải xấu hổ, tủi nhục khi nghe cái tin ấy. Tình yêu làng của ông cao đẹp, to lớn biết dường nào?
    Trong con người ông Hai, tình cảm dành cho làng gắn liền với tình yêu nước. Tình yêu quê hương là cội nguồn cùa tình yêu nước. Đúng như I-li-a Ê-ren-bua, một nhà văn Liên Xô cũ đã viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu tổ quốc”. Với ông Hai, chân lý ấy càng đúng hơn bao giờ hết. Từ chỗ yêu những con đường làng, yêu những mái nhà ngói,… tình cảm của ông Hai tiến dân lên lòng yêu nước. Lòng yêu nước sâu nặng, thầm kín ấy lại bừng sáng rực rỡ ,lung linh trong tâm hồn ông. Tình yêu làng được nâng cao, được vút lên đinh cao của vẻ đẹp trong nhân vật ông Hai mà Kim Lân tập trung khấc họa, tô đậm rõ nét.
    Vì yêu nước nên ông Hai căm thù bọn phản bội đất nước. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây ông đã rít lên : “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt Gian bán nước để nhục nhã thế này!” . Tiếng rít ấy thể hiện sự căm giận đang bốc lên ngùn ngụt, thể hiện sự dồn nén, kìm hãm đã ghê gớm lắm rồi trong lòng ông. Lời nói ấy ẩn chứa bao nhiêu lời trách oán, khinh bỉ, khổ đau. Cũng vi yêu nước mà chiều nào cũng cũng tìm đến phòng thông tin nghe tin tức về cuộc kháng chiến, ông hả lòng, hả dạ, sung sướng , tự hào về những chiến tích anh hùng của mọi người dân trong cả nước. Điều đó thể hiện tấm lòng chân thật của ông Hai dành cho đất nước.
    Những diễn biến trong cảm xúc, tâm trạng những nghĩ suy sâu sắc, những cuộc đấu tranh xung đột gay gắt trong nội tâm ông Hai đã tô đậm thêm tình yêu quê hương, đất nước của ông. Chính ông đã khẳng định: “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Câu nói ấy chân thành như một lời bộc bạch, tình yêu cùa ông Hai bây giờ thực sự có ý thức, ông cảm thấy tủi hổ vì làng theo Tây và ông cảm thương những đứa con ông có một quê hương như thế. Ông không dám đi đến đâu , lúc nào cũng nơm nớp lo lâu. Cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra thật gay gắt, quyết liệt. Có những lúc ông định về làng , song ông nghĩ : “ về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Như vậy là tấm lòng ông đã dành hẳn cho đất nước, tình yêu nước đã kết tụ, lắng đọng lại trong ông thành một thứ ánh sáng diệu kì, rực rỡ.
    Lòng yêu nước sâu nặng của ông Hai đã thúc giục ông phải bảo vệ đất nước, phải đánh đuổi quân giặc tàn bạo, dã man. Nhiều lúc, ông bồi hồi nhớ lâị nhưng ngày kháng chiến ờ làng. Hồi ấy ờ làng chợ Dầu thật khí thế, đông vui, sôi nổi: “ Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một, hai”. Ta không chỉ thấy ở ông Hai một quyết tâm theo Bác Hồ , theo kháng chiến đến cùng mà ta còn thấy cả những người dân lảng chợ Dầu nói riêng và người dân Việt Nam nói chung đều có cùng quyết tâm như vậy.
    Dù già, dù trẻ ai cũng muốn góp sức mình vào cuộc kháng chiến trường kì để làm nên thắng lợi. Kim Lân đã tái hiện một thời kỉ toàn dân tộc ta sôi sục đứng lên đánh giặc trong những ngày đầu kháng chiến mà ông Hai là một nhân vật điển hình. Cũng như bạo người khác ông sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến, cho cụ Hồ.
    Chi tiết cuối truyện khắc sâu trong lòng bạn đọc bời vì ông hai rất vui mừng, hả hê khi khoe khoang làng ông không đi Việt gian và : “Tây nó đốt nhà tôi tôi bác ạ! Đốt sạch!”. Người nông dân xưa luôn bị đè nặng bởi miếng com manh áo, bởi nhà cửa vườn tược… khi phải bỏ nhà ra đi, họ xót xa lắm rọi. Song với ông Hai, ngay cả khi cháy nhà, ông vẫn sung sướng lắm vì ông hiểu rằng như vậy là ông đã cống hiến cho quê hương đất nước, như vậy là làng ông vẫn bất khuất anh hùng. Làng chợ Dầu còn biết bao người vẫn một lòng đánh giặc. Nếu như lúc trước tinh thần ông Hai sụp đổ ghê gớm thì bây giờ ánh sáng của niềm tin, niềm hy vọng lại chiếu rọi sáng ngời tâm hồn ông. Yêu làng và yêu nước quyết tâm kháng chiến đến cùng, kính yêu lãnh tụ với niềm tin sắt đá. Đó là tấm lòng của ông Hai, là tâm hồn hàng triệu người nông dân Việt Nam thời máu lửa.
    Kim Lân đã rất thành công khi lựa chọn giọng kể nhẹ nhàng mà lắng sâu, có chiều sâu tâm lí. Cách sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách hết sức đọc đáo. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.
    • Kết bài:
    Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến.Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất,hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.