Phân tích ý nghĩa và giá trị Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích ý nghĩa và giá trị Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm


    [​IMG]
    Phân tích ý nghĩa và giá trị Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm​


    • Mở bài:
    Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Ông là người có đóng góp tích cực cho triều đại Tây Sơn trong chấn chỉnh vì đất nước sau khi đánh bại quân Thanh xâm lược. Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
    • Thân bài:
    Bài chiếu cầu hiền có bố cục rõ ràng, chặt chẽ. Phần đầu: (từ đầu … người hiền vậy): quy luật xử thế của người hiền. Phần hai: (trước đây… hay sao): cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước. Phần còn lại: đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.
    Thừa lệnh Quang Trung nguyễn Huệ viết Chiếu cầu hiền, thế nhưng, bài chiếu tỏ rõ cái tài, cái chí của Ngô Thì Nhậm đối với việc thu phục nhân tài ra phục vụ cho đất nước:

    Ngô thì Nhậm nêu ra quy luật xử thế của người hiền:

    Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
    Bắt đầu bài chiếu tác giả mượn lời của Khổng Tử để nói lên mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử: “Hiền tài cũng như sao sáng trên trời”. Lời lẽ đó khẳng định và trân trọng người có tài. Tiếp đến từ quy luật tự nhiên “sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc thần”, khẳng định người hiền phụng sự cho thiên tử là một cách xử thế đúng, là tất yếu, là hợp với ý trời.
    Để tăng thêm sức thuyết phục với sĩ phu Bắc Hà, ông đã dẫn trong sách Luận ngữ của Khổng Tử: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dung, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.
    Lấy lời cổ nhân để lập luận cái lẽ hiển nhiên: có tài tất được tin dùng, ngô thì nhậm đã đánh đúng tâm lí của các sĩ phu Bắc hà. Họ muốn ra phục vụ nhà Tây sơn sau khi triều đình Lê-Trịnh bị đánh bại nhưng lại ngại ngùng vì chưa rõ thực thời thế thế nào. Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục của bài chiếu khiến họ yên tâm và tin tưởng hơn ở sức mạnh nhà Tây Sơn.

    Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước:

    Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe……. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?
    Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà: “Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”.
    Cách sử dụng điển cố, điển tích: “ở ẩn trong ngòi khe”, “trốn tránh việc đời”.v.v… khiến cho câu văn thêm phần trang kính. Tiếp đến lại tỏ lòng mong mỏi của Quang Trung Nguyễn Huệ muốn các quan đừng nghĩ chuyện cũ mà hết lòng ra phục vu đất nước bằng những lời lẽ hết sức thiết tha: Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
    Bằng cách khiêm tốn nhận sự kém cỏi về mình: “hay trẫm ít đức không đáng kể phò tá chăng”, đặt ra vấn đề tài đức của người trị vì đất nước, bài chiếu đánh thẳng vào nhân tâm, đập mạnh vào nỗi hoài nghi của các quan triều cũ. “Ở ẩn trong ngòi khe” hay “trốn tránh việc đời”, cả hai cách đều không đúng với hiện thực bấy giờ. Vừa thể hiện được sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện được sự đòi hỏi và chút thách thức của vua Quang Trung.

    Tính chất của thời đại mới và nhu cầu của đất nước.

    “Kia như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài… há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”
    Thẳng thắng thừa nhận những bất cập của triều đại mới, khéo léo nêu nhu cầu của đất nước. Biết bao khó khăn đang thách thức: “Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh”.
    Dù tài trí hơn người, nhưng nhà vua vẫn luôn mong có người giúp sức: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa”.
    Cách nói vừa khiêm nhường, tha thiết vừa kiên quyết. Nhà vua tự tỏ bày về hoàn cảnh đất nước. Lời lẽ chân thành thốt ra tự đáy lòng mình.. Đất nước vừa được tạo lập, dân tình chưa yên, kẻ thù còn lăm le bờ cõi, trăm công nghìn việc cần ddwuwocj thu xếp càng sớm càng tốt. Rõ ràng đó là những lời tâm sự chân thành nhất, không phô trương quyền lực, không dọa nạt chém giết, vị vua ấy hiền từ coi trọng người hiền tài, lo cho vận mệnh của đất nước và quyền lợi của nhân dân

    Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung

    “Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc….. chưa được người đời biết đến, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao”.
    Đối tượng cầu hiền là quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ không trừ một ai miễn một lòng vì đất nước mà khong quản ngại gian lao.
    Biện pháp, cách thức cầu hiền cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dân sớ, tâu bày kế sách; cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi; cho phép người tài tự tiến cử. Hễ ai có tài và đem cái tài phục vụ đất nước thì không kẻ giai cấp, thứ bậc, đều được trọng dụng và gi công.
    Đoạn kết là lời kêu gọi động viên, khích lệ cùng nhau gánh vác việc nước để hưởng phúc lâu dài: “nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”. Tư tưởng dân chủ, tiến bộ, tầm nhìn xa trông rộng, chí công vô tư của bậc đại tài Quang Trung Nguyễn Huệ
    Cách nói sung cổ, lối văn ngắn gọn, súc tích, tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ,… bài chiếu vừa rắn roit thuyết phục vừa thiết tha cảm động lòng người. Chiếu cầu hiền quả thực xứng đáng là một trong bản hùng văn xuất sắc của thời đại.
    • Kết bài:
    Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dung đất nước. Bài chiếu được viết với nghệ thuật thuyết phục đặc sắc và thể hiện tình cảm của tác giả đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
    • Câu hỏi và đề luyện tập:
    1. Hãy cho biết: bài chiếu được viết nhằm đối tượng nào? Các luận điểm đưa ra để thuyết phục là gì? Có phù hợp với đối tượng không? Nhận xét về nghệ thuật lập luận của bài chiếu.
    2. Qua bài “chiếu cầu hiền”, anh/chị hãy nhận xét về tư tưởng và tình cảm của vua Quang Trung.