Phân tích ý nghĩa và giá trị tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích ý nghĩa và giá trị tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

    Bài làm:
    Mở bài:

    Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp có đóng góp rất lớn đối với văn học Việt Nam hiện đại, là cây bút viết tùy bút xuất sắc. Sở trường của Nguyễn Tuân là về tùy bút và ký. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Người lái đò sông Đà (trích Tỳ bút sông Đà) là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Tuân sau Cách mạng. Tác phẩm thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật ngòi bút tài hoa, uyên bác và sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn của tác giả đối với quê hương, đất nước.

    Thân bài:

    Tác phẩm Người lái đò sông Đà được in trong tập Sông Đà (1960), là kết quả trong chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Tác phẩm đã cho ta nhận ra diện mạo của một nhà văn Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao được hòa nhập với đất nước với cuộc đời. Qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và thơ mộng, người lái đò bình dị mà trí dung tài hoa, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc của Tổ quốc.
    Hình tượng sông Đà:
    Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một nhân vật có hai tính cách trái ngược vừa hung bạo, dữ dằn vừa trữ tình, thơ mộng.
    Sự hung bạo của sông Đà
    Vẻ hung bạo, dữ dằn của sông Đà là biểu tưởng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Sự dữ dằn của sông Đà được biểu hiện sâu sắc nhất qua hình tượng đá. Đá sông Đà vô cùng hiểm trở, chứa đựng hiểm nguy khủng khiếp.
    Đá “dựng vách thành”, “chẹt” lòng sông “như cái yết hầu” làm cho mặt sông chỗ ấy vừa hẹp, vừa tối lại rất lạnh vì “chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”. Cả một “chân trời đá” làm nên diện mạo của sông Đà. Hìn ảnh đá sông Đà được nhà văn khắc họa hết sức sinh động và kì quái. Mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” . Đá mai phục dưới lòng song hàng ngàn năm được nhân hóa, nổi hình nổi tướng “bệ vệ”, “oai phong lẫm liệt”, “nhổm dậy”, “cứ chực vồ lấy thuyền”,…
    Sự dữ dằn, hưng bạo của sông Đà còn ở sóng và nước cuồn cuộn. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số là cảnh “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Lúc nào chúng cũng như muốn “đòi nợ xuýt” bất cứ người lái đò nào. Dòng nước dữ kết hợp với đá ngầm, đá tửng tạo thành những hút nước ghê rợn. Ngay tại những chỗ ấy, mặt nước “giống như cái giếng bê tong thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây thở và kêu như “cửa cống cái bị sặc” sẵn sang nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào. Có những cái thuyền đã bị cái hút nước đó hút xuống, truyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
    Rồi đến thác gầm rống dữ tợn cũng là một điều khủng khiếp của sông Đà. Chảy qua địa hình phức tạp bậc nhất đất nước, sông Đà cũng hình thành nên những thác nước đáng sợ. Âm thanh tiếng thác từ xa nghe như “van xin”, “oán trách”, rồi lại như “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Đến khi lại gần, âm thanh ấy càng khủng khiếp: “thế rồi nó rống lên như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa đang phá tuôn rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
    Sông Đà đặc biệt hung bạo khi những yếu tố trên kết hợp với nhau tạo ra những thạch trận, phòng tuyến với nhiều cửa tử, nhiều chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đòn đánh thâm hiểm. Nó như một loài thủy quái khổng lồ, nham hiểm mang diện mạo và tâm địa như một thứ kẻ thù số một của con người.
    Vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà
    Đà giang chỉ thực sự trữ tình khi chảy qua chợ Bờ và để lại những hóc đá thác xa xôi trên thượng nguồn. Dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở như hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…”.
    Màu nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, mỗi độ thu về nó lại “ lừ lừ chin đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa…”
    Sông Đà có vẻ đẹp rất gợi cảm. Mỗi lần vượt ra khỏi khu rừng rậm, nhìn thấy ánh sáng lấp lóe, tác giả gặp lại dòng sông như gặp lại cố nhân: “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng… nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”.
    Dòng sông gợi vẻ đẹp của một áng Đường thi bởi “màu nắng tháng ba yên hoa tam nguyệt”. Cảnh vật hai bờ sông vừa “lặng tờ” hoang sơ nhuốm màu cổ tích. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích cổ xưa”. Hai bên bờ, cuộc sống yên bình, trù phú, tràn trề nhựa sống. Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa…Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp… Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm…
    Qua hình tượng sông Đà, Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông thiên nhiên cũng là tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác và lịch lãm. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp người lao động trong cuộc sống mới.
    Hình ảnh ông lái đò
    Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa ông lái đò với “bầy thủy quái sông Đà”, để từ đó làm nổi bật hình ảnh người lái đò, một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường.
    Ông lái đò là người lao động trí dũng:
    Ông là người từng trải, giàu kinh nghiệm hiểu biết sâu sắc về luồng lạch sông Đà. Ông như vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí. Bao năm tùng trải, đi về với sông Đà, ông biết bọn đá mai phục và bày thạch trận trên sông với đám đá tảng chia ba hàng tiền vệ, có hai còn canh cửa như là để dụ đối phương; những boong-ke chìm ở tuyến hai, pháo đài nối ở tuyến ba; với chiến thuật đánh “khuýp quặt vu hồi” và quyết tâm chiến lược “phải tiêu diệt thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác”…
    Ông lái “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích” của chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến kẻ thù.
    Ông dũng cảm đối đầu trong cuộc chiến không cân sức với sông Đà:
    Sông Đà là thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hang thần thánh có sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có đá ngàn năm mai phục, bày “thạch trận” trên sông, thác gầm rống, reo hò “làm thanh viện cho đá”, sóng nước như thề quân liều mạng đánh những đòn hiểm độc.
    Ông đò chỉ là một con người bé nhỏ, không có phép màu, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo thô sơ “trên một cái thuyền đơn độc” hết chỗ lùi, nhưng vẫn sẵn sang đối mặt với thác dữ, chinh phục mọi cửa tử, cửa sinh, vượt qua trận thủy chiến ác liệt với đá nổi đá chìm với những trùng vi thạch trận và những phòng tuyến đầy nguy hiểm để chiến thắng thiên nhiên.
    Ông lái đò là một người nghệ sĩ tài hoa trê sông nước.
    Ông đã đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung của người nghệ sĩ; đã bình tĩnh vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan. Với “tay lái hoa” ông đã điều khiển con thuyền vượt qua ba trùng vi thạch trận Sông Đà:
    Ở trùng vi thạch trận thứ nhất:
    Sông Đà mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử và một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Bọn đá đứa thì “hất hàm”, đứa thì “thách thức” khiêu chiến, nước thác hò reo “làm thanh viện cho đá”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền”, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái.
    Ông lái đò đã bị thương nhưng cố nén chịu nỗi đau thể xác, “hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái”, “mặt méo bệch” nhưng “tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo” đưa thuyền vượt qua nguy hiểm.
    Ở trùng vi thạch thứ hai:
    Sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử còn cửa sinh lại ở phía hữu ngạn. Dòng thác thì hồng hộc tế mạnh lên như hùm beo hòng nuốt sống con thuyền.
    Ông lão chủ động đổi chiến thuật: “nắm lấy bờm sóng…cưỡi lên thác sông Đà như cưỡi hổ”. Bọn đá xô ra, định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, nhưng ông nhớ mặt bọn này, chỗ ông “rảo bơi”, chỗ “đè sấn”, chỗ “chặt đôi ra” để mở đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết thất vọng, tiu nghỉu cái mặt xanh lè nhìn ông lão đưa con thuyền lọt vào cửa sinh an toàn.
    Ở trùng vi thạch thứ ba:
    Sông Đà bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống duy nhất nằm giữa dòng sông do bọn đá hậu vệ trấn giữ. Ông lái kiên cường, mưu trí, như hòa với con thuyền làm một, “phóng thẳng” chọc thủng cửa giữa, vượt qua tất cả các vòng vây, con thuyền “như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”. Thế là hết thác.
    Cuối cùng con người đã chiến thắng sức mạnh thánh thần của thiên nhiên. Thác dữ không chặn được con thuyền, ông lái đò đã thuần phục được sự hung hãn của dòng sông. Nguyên nhân làm nên chiến thắng đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm, lòng dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước tuyệt vời của ông lái.
    Tâm thế ung dung, bình thản, thư thái sau khi vượt thác:
    Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy khó khan, nguy hiểm, ông lại ung dung “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam” và say sưa nói về các loài cá mà không hề bàn thêm một lời nào về chuyện vượt thác. Ông đã nhìn thử thách bằng một cái nhìn thật giản dị và lãng mạng nên chiến thắng vừa qua nơi ải nước “không có gì là hồi hộp đáng nhớ”.
    Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới: những con người đáng trân trọng, ngợi ca, không thuộc tầng lớp đài các “Vang bóng một thời” mà là những người lao động bình thường – chất “vàng mười của Tây Bắc”.
    Nguyễn Tuân đã rất thành công với nghệ thuật biểu hiện đặc sắc khi tái hiện sự hung dữ và vẻ đẹp của sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh, có sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu. Nguyễn Tuân chẳng khác nào một viên tướng tài hoa điều khiển, sắp xếp đoàn binh ngôn ngữ thực hiện bài binh bố trận tạo nên nên sức mạnh gợi tả của tác phẩm.

    Kết bài:

    Tác phẩm Người lái đò Sông Đà đã giới thiệu, khẳng định, và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam.