So sánh kết cấu truyện độc đáo giữa Chí Phèo của Nam Cao và Vợ nhặt của Kim Lân

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    So sánh kết cấu truyện độc đáo giữa Chí Phèo của Nam CaoVợ nhặt của Kim Lân


    6.jpg
    • Mở bài:
    Kết cấu là “toàn bộ tố chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm ”. Trong tác phẩm văn học chi tiết phải tuân thủ kết cấu. Kết cấu giúp tổ chức chi tiết. Trong truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân), hai nhà văn đã tạo nên được những kết cấu độc đáo nhờ các chi tiết nghệ thuật đắc giá.
    • Thân bài:
    Nam Cao xây dựng thành công kết cấu vòng tròn, đầu cuối tương ứng trong truyện ngắn Chí Phèo. Chính kết cấu đặc sắc đó khiến cho hình tượng Chí Phèo và cái vòng đời luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân Việt Nam trước cách mạng có sức ám ảnh mạnh mẽ. Nó có sức mạnh tạc khắc vào tâm trí người đọc một viễn cảnh ghê rợn.
    Khi mới ra đời “Chí Phèo” có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi và cuối cùng là Chí Phèo. Cái lò gạch cũ là nơi Chí Phèo cha ra đời và cũng có thể là nơi hứa hẹn sự ra đời của Chí Phèo con. Chi tiết cái lò gạch cũ được nhắc đi nhắc lại hai lần trong tác phẩm, đặt ở vị trí đầu và cuối của thiên truyện như một thủ pháp trùng lặp, góp phần khái quát một hiện tượng phổ biến đến mức đã thành quy luật khủng khiếp trong cuộc đời những người nông dân ở xã hội cũ: họ bị xã hội thực dân nửa phong kiến đẩy vào con đường lưu manh, sa vào kiếp sống tối tăm của thú vật, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính.
    Chí phèo dẫu là đứa con không thừa nhận nhưng được nuôi dưỡng cẩn thận. Trong anh tồn chứa những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân bình dị, hiền lành và tốt bụng. Thế nhưng, người nông dân lương thiện ấy nhanh chóng bị đẩy vào con đường lưu manh dần dần bị tha hoá. Thế lực gây nên bi kịch ấy không ai khác chính là bọn cường hào, ác bá trong làng.
    Đùng một cái, người ta thấy lính dẫn giải Chí Phèo đi. Hắn đi tù. Không ai hiểu hắn bị đi tù vì lí do gì. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho cường hào thâm độc để giết chết phần “người” trong con người Chí Phèo, biến Chí thành Phèo, biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ.
    Chí phèo là đại diện cho nỗi thống khổ ghê gớm của con người dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Nỗi thống khổ đó không phải là không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích; mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát cả một mặt người, cướp đi linh hồn người, phải sống kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó chính là nỗi thống khổ của cá thể sinh ra là người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi.
    Chí Phèo cũng là đại diện tiêu biểu cho bản chất lương thiện của những con người khốn khổ vốn thấp cổ bé họng trong xã hội. Bị cưỡng bức tàn tệ nhưng không thể nào kêu than, mà cũng chẳng biết kêu với ai. Luôn tha thiết mong được thương yêu, được cảm thông và được sống hòa nhập với mọi người nhưng lại bị chính xã hội rũ bỏ. Bởi thế, Chí Phèo nhận thấy hắn không thể trở lại làm người lương thiện được. Thị Nở là cứu cánh cuối cùng nhưng cũng đã buông tay khiến cho Chí Phèo hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng.
    Chí Phèo chết nhưng mầm sống của hắn đã kịp gieo vào Thị Nở. Câu chuyện kết thúc nhưng những xung đột chưa hẳn đã chấm dứt. Hình ảnh cái lò gạch cũ lại hiện ra đầy sức ám ảnh.
    Với truyện ngắn Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. Chí Phèo là một tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.
    Việc lặp lại hai lần chi tiết cái lò gạch cũ và lấy chi tiết ấy đặt tên cho tác phẩm, Nam Cao đã nói lên một điều rằng: chừng nào còn có xã hội bất công, tàn bạo, có cơ chế sản sinh ra tội ác, chừng ấy còn có hiện tượng Chí Phèo. Qua kết cấu này, chúng ta thấy, Nam Cao đã nhận thức được cái tận cùng của xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
    Nếu chi tiết “cái lò gạch cũ” tạo nên kết cấu vòng tròn đầy buồn thảm cho “Chí Phèo” của Nam Cao, thì chi tiết lá cờ đỏ đã tạo nên kết thúc đầy lạc quan cho truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Chi tiết lá cờ đỏ sao vàng ở cuối truyện thật đột ngột, ngẫu nhiên mà cũng tất nhiên. Nó gắn với ý nghĩa sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của sự sống với cái chết. Nó là biểu tượng của cách mạng, của con đường tương lai tươi sáng mà nhà văn bằng tấm lòng nhân đạo cao cả đã soi đường chỉ lối cho nhân vật của mình.
    Không gian Vợ nhặt mở ra với nạn đói khủng khiếp xảy ra tràn lan khắp nơi, người chết như rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Cái đói, cái chết, cái tàn tạ phủ bóng đen khắp mọi nẻo đường. Trong bối cảnh đó, xuất hiện một anh chàng thô kệch, xấu xí tên là Tràng. Là dân ngụ cư, lại có hình dung như thé, sống trong nạn đói khốc liệt thế này, tuổi đời chong chênh, không ai tin rằng Tràng sẽ lấy được vợ. Thế mà, đùng một cái, một buổi chiều, anh dẫn vợ về nhà.
    Vượt qua tất cả khó khăn và dị nghị, hạnh phúc của Tràng được đông đầy. Dù chưa tin hẳn là sẽ vượt qua được nhưng trong cuộc sống của họ như có một nguồn sáng mới, một tương lai mới, một cái gì đó đáng đẻ cố gắng và tin tưởng. Kết thúc tác phẩm, qua lời kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới.
    Đó là cái nhìn mà ở thời điểm của Chí Phèo không thể nào có được. Chí phèo dù dã cố gắng vượt thoát ra khỏi số phận của chính mình nhưng càng gắng gượng càng thêm đau thương. Ở Tràng lại khác hẳn. Anh cứ mặc nhiên đón nhận, chấp nhận và cuối cùng là công nhận thực tại. Dĩ nhiên, ở thời đại của Tràng, lúc này, ánh sáng của Cách mạng đã soi chiếu sâu hơn vào đời sống của người nông dân. Tràng đối diện với nạn đói, tuy vô hình nhưng cũng vô tình. Còn Chí Phèo, hắn phải đối diện với con người có thế lục, với âm mưa gian xảo, với lòng đố kị, ghen tuông điên cuồng, còn đáng sợ hơn cái đói và cái chết nhiều lần.
    Những con người như bà cụ Tứ, đặc biệt là đôi vợ chồng trẻ với tình yêu thương đùm bọc, với sức sống mãnh liệt và niềm tin vào ngày mai tốt đẹp sẽ rất dễ dàng bắt gặp ánh sáng cách mạng của Đảng. Với ý nghĩa đó, “Vợ nhặt” có thể coi là bài ca ca ngợi sự sống, đã thể hiện niềm tin bất diệt của Kim Lân vào con người, đặc biệt là người lao động.
    Câu chuyện mở ra bằng bóng hoàng hôn chạng vạng, kết lại trong ánh sáng rực rỡ của ban mai và lá cờ đỏ sao vàng. Kết cấu tự nhiên ấy làm cho Vợ nhặt mở ra nhiều liên tưởng cho người đọc hướng về niềm tin và hi vọng. Lá cờ đỏ ở cuối tác phẩm là dấu hiệu của một cuộc cách mạng, một sự đổi đời. Và chính nhà văn Kim Lân từng nói: Cái đói là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên, đó là một đề tài thuộc về bản chất đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”.
    • Kết bài:
    Nếu truyện ngắn Chí Phèo đi về với một kết thúc không có hậu, đáng buồn (dù Bá Kiến bị trừng trị nhưng những người như Chí Phèo vẫn không được hưởng hạnh phúc) thì Vợ nhặt lại đạt đến hạnh phúc tràn đầy, mở ra một viễn cảnh tươi sáng, hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp. Tuy thế, cả hai tác phẩm đều thấm đẫm tinh thần nhân đạo cao cả. Hai tác phẩm là niềm cảm thương sâu sắc của người nghệ sĩ trước những số phận đau khổ. Nhà văn dù không nói trực tiếp mà lại hết sức khách quan, khách quan tới mức sắc lạnh nhưng ẩn sau trong đó là một nỗi đau và niềm xót thương vô hạn về kiếp người.