Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm) – Đặng Trần Côn

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm) – Đặng Trần Côn


    11.jpg
    Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích chinh phụ ngâm) – Nguyên tác chữ hán: Đặng Trần Côn – Bản diễn Nôm: Đoàn Thị Điểm​


    I. Tìm hiểu chung

    1. Tác giả, dịch giả:

    Tác giả:
    Đặng Trần Côn
    (chưa rõ năm sinh – năm mất), người làng nhân mục, huyện thanh trì, Hà Nội, sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII.
    Ngoài tác phẩm chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ hán và viết một số bài phú chữ hán.

    Dịch giả:
    Đoàn Thị Điểm
    (1705 – 1748), hiệu là Hồng hà nữ sĩ, người trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Tác phẩm tiêu biểu: chinh phụ ngâm (dịch), truyền kì tân phả.
    Phan Huy Ích (1750 – 1822), tự là Dụ Am, người trấn Nghệ An Dương Vương (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh), đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi. Tác phẩm tiêu biểu: dụ am văn tập, dụ am ngâm lục.
    Nhiều người cho rằng: dịch giả là Đoàn Thị Điểm vì có sự đồng cảm của nữ sĩ khi dịch nguyên tác chinh phụ ngâm khúc.

    2. Tác phẩm “chinh phụ ngâm”:

    Hoàn cảnh sáng tác:

    Đầu đời Lê Hiển Tông, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai tráng ra trận. Cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, Đặng Trần Côn đã viết chinh phụ ngâm.

    Thể loại:
    Nguyên tác: thể trường đoản cú, gồm 476 câu thơ chữ hán.
    Bản dịch: thể song thất lục bát, gồm 408 câu thơ chữa nôm.

    Nội dung:
    Tác phẩm nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.

    Văn bản:
    Vị trí văn bản: từ câu 193 đến câu 216 trong bản dịch chinh phụ ngâm hiện hành.
    Khái quát nội dung và nghệ thuật: (ghi nhớ)
    Đoạn trích miêu tả cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

    II. Tìm hiểu văn bản:

    * Nội dung:

    1. Nỗi cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ (8 câu thơ đầu):

    Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
    Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
    Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
    Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
    Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
    Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
    Buồn rầu nói chẳng nên lời,
    Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

    Nỗi cô đơn thể hiện qua hành động lặp đi lặp lại: đi đi lại lại trong hiên vắng, rủ rèm rồ lại cuốn rèm → hoàn cảnh tù túng, bế tắc, tâm trạng bồn chồn, ngổn ngang vì chờ đợi tin tức chồng. Mong tin vui mà “ngoài rèm thước chẳng mách tin”
    Nỗi cô đơn thể hiện qua sự đối bóng giữa người chinh phụ với ngọn đèn khuya. Người chinh phụ chỉ có người bạn duy nhất là ngọn đèn vô tri vô giác, không thể san sẽ nỗi nhớ mong, chờ đợi của nàng.
    Tả đèn chính là tả không gian mênh mông, vô tận và tâm trạng cô đơn của con người trong không gian đó. Ngọn đèn dầu là bieur tượng của dòng thời gian trôi chảy. Từng đêm từng đem đi qua trong mong mỏi mà bóng chồng chẳng thấy trở về.
    Miêu tả nội tâm qua ngoại hình: dáng mặt buồn rầu, không nói nên lời “buồn rầu nói chẳng nên lời”.

    2. Nỗi sầu muộn triền miên trong bóng tói lạnh lùng (8 câu thơ tiếp theo):

    Gà eo óc gáy sương năm trống,
    Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
    Khắc giờ đằng đẵng như niên,
    Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
    Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
    Gương gượng soi lệ lại châu chan.
    Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
    Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.

    Nỗi sầu muộn thể hiện qua cảm nhận về thời gian tâm lí:
    Âm thanh của tiếng gà eo óc gáy → thời gian đêm tối vắng lặng. Tiếng gà gáy tưởng rằng sẽ làm cho không gian bớt co quạnh nhưng ngược lại nó khiến cho không gian ấy càng thêm hiu hắt. Âm thanh vang lên rồi biến lặng trong đêm tói muôn trùng.
    Bóng hòe phất phơ trong đêm → không gian hoang vắng, cô đơn đáng sợ.
    Các từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc”, lối so sánh “như niên”, “tựa miền biển xa” → người chinh phụ như đếm từng bước thời gian nặng nề trôi mà cảm nhận một khắc giờ “đằng đẵng như niên”. Thời gian như đứng lại, khô cứng, lạnh lùng đáng sợ.
    Để giải tỏa nỗi sầu, nàng cố tìm đến những thú vui: soi gương, đốt hương, gãy đàn nhưng việc gì cũng chỉ là “gượng” (gượng gạo, miễn cưỡng). Hành động ấy chỉ để làm cho tâm trạng bớt phần đơn điệu khi không thể đi vào giấc ngủ. Hành động ấy cứ lặp đi lặp lại từng đêm đến nỗi quen thuocj, nhàm chám, vô vị.
    Gượng đốt hương để tìm sự thanh thản → càng thêm mê man, mơ màng, không tập trung. Gượng soi gương để trang điểm → nước mắt lại thêm tuôn rơi. Gượng gảy đàn sắt đàn cầm → sợ đứt dây, phím chùng. Tất cả đều mang lại cho nàng cảm giác đau buồn. Mỗi một hành động là một nỗi nhớ mong, niềm trông đợi. Tất cả như mềm ra thành nước tuôn chảy.

    3. Nỗi nhớ thương đau đáu (8 câu thơ cuối):

    Lòng này gửi gió đông có tiện?
    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
    Non Yên dù chẳng tới miền,
    Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
    Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
    Cảnh buồn người thiết tha lòng,
    Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

    Nỗi nhớ được thể hiện qua một khao khát cháy bỏng: gửi nỗi nhớ trong lòng mình đến non yên theo ngọn gió mùa xuân mong được chồng thấu hiểu, sẽ chia.
    Mức độ của nỗi nhớ được gợi lên qua những từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu”, qua nghệ thuật so sánh.
    Khao khát của nàng không được đền đáp vì không gian cách trở nghìn trùng, thời gian chờ đợi kéo dài triền mien “nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”.
    Người chinh phụ được đặt vào không gian có tầm vóc vũ trụ với các hình ảnh núi non, trời đất gợi sự xa xôi “non yên, trời thăm thẳm”. Cảnh vật cũng lạnh lẽo, thê lương với hình ảnh sương gió lạnh lùng, mưa rơi lã chã, tiếng trùng than dế khóc não nề…”cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Tất cả gợi sự cô đơn, nỗi nhớ thương vô vọng.

    * Nghệ thuật:
    – Bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật.Ngôn từ chọn lọc, nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, dùng từ láy.

    • Câu hỏi luyện tập:
    – Nêu hiểu biết của em về tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm.Cho biết giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích?
    – Cảm nhận về đoạn thơ sau:
    “Dạo hiên vắng gieo từng bước

    Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại ngùng”
    – Cảm nhận về đoạn thơ sau:
    “Lòng này gửi gió đông có tiện

    Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun?