Cảm nhận về bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy -Bài làm 1 Bài làm: Cuộc sống có những điều được gọi là nỗi nhớ, cứ xa xôi vô hình; có những hình ảnh được gọi là hoài niệm mãi miên man, dằng dặc; và có những tình cảm được gọi là yêu thương luôn ấm nồng sâu sắc mà thường đi xa rồi người ta mới biết cách gọi tên chúng. Ta gọi chúng như là hoài niệm,là nỗi nhớ, yêu thương... Cuộc đời người ngắn ngủi như chiếc lá, thoáng chốc thôi cũng đủ để mầm non chuyển sắc vàng. Người ta lớn lên, bon chen nhau mà sống để rồi biết bao lần lại tìm về tuổi thơ trong những nỗi nhớ xa xôi như thế. Với Nguyễn Duy đó lại là cả một thế giới của Đò Lèn – nơi lắng kết những giá trị vĩnh hằng – bài thơ mà cái tên thôi đã gợi lên giữa lòng người nhiều suy nghĩ. Những người đã biết sẽ thấy quen thuộc nhưng những người không biết lại dễ phân vân: cái gì là “Đò Lèn“? Hai tiếng ấy vô tình trở thành một khái niệm khó hình dung trong khi thực chất nó lại vô cùng giản dị. Nó không phải là con đò, là dòng sông, bến nước hay cái gì đó chợt nảy ra khi lần đầu nghe đến. Đò Lèn là tên một miền đất như bao miền đất khác, nơi đã tạo nên tuổi thơ, hình thành hoài niệm trong bao lớp người xứ Thanh Hoá: Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá níu váy bà đi chợ Bình Lâm bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần Tuổi thơ được tác giả gợi lên với hình ảnh của bà, với những trò chơi thuở nhỏ.Ở đó có cậu nhóc nào ham chơi mải mê câu cá, có cô bé nào nũng nịu: níu váy bà” ra chợ mua quà. Cái cống Na và chợ Bình Lâm hẳn đã là cả một thiên đường của nhà thơ. Ông viết nó giản dị và chân thật như vừa đem từ cuộc sống vào chứ không chỉ từ một nỗi nhớ thôi. Nào là đi bắt chim sẻ, rồi đi ăn trộm nhãn của chùa,..., được lang thang trên đồng ruộng, trong những ngôi chùa, khu vườn rộn ràng tiếng chim kêu. Không gian mở ra rộng lớn và mênh mông thoả mãn tính hiếu động, đam mê khám phá của tuổi nhỏ, đưa chúng hoà nhập vào thiên nhiên, đất trời. Được chơi đùa, được nghịch ngợm thoải mái mới thấy hết niềm thích thú vô tận. Đó thật sự là tuổi thơ đúng nghĩa, khác hẳn với không gian nhỏ bé bao quanh bởi 4 bức tường chật hẹp bây giờ. Ta có thể hình dung ra trước mắt là hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, lấm lem nhưng mắt sáng ngời. Không có quần áo đẹp, không có búp bê, siêu nhân, những tuổi thơ như thế hôm nay chỉ còn phảng phất trong nỗi nhớ người trưởng thành, trong ánh mắt lạ lẫm háo hức của trẻ con khi xem phim, đọc truyện ngày trước- cái thời của ba, của ông mình. Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm miên man, dằng dặc trôi đi: Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng Trở về tuổi thơ ta nhận ra niềm hạnh phúc ngây thơ, trong sáng với đôi chân nhỏ bé thoăn thoắt khắp nơi, ru mình trong làn hương và điệu hát. Bàn “chân đất “đã trở thành hình ảnh không thể nào quên đối với mỗi người, cái cảm giác được trực tiếp chạm chân vào đất mát lạnh đến vô cùng, nó ghi dấu hành trình những đêm lễ xa xôi. Và cũng như thế, mùi huệ trắng, làn khói trầm, điệu hát văn đã đi vào từ vô thức! Tất cả chúng góp phần hình thành tuổi thơ đầy hồn nhiên, tinh nghịch trong tâm hồn mỗi người đã đi qua tuổi thơ, nhiều khi phải xin “cho tôi một vé đi tuổi thơ “. Từ ngày ấy đến bây giờ là cả một quá trình con người lớn lên, hình thành nhận thức. Ngày còn nhỏ vô tư, không lo nghĩ: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập những đêm hàn Bà hiện lên trong cuộc sống của cháu lặng lẽ, âm thầm... Cái đầu non nớt và trái tim nhỏ dại đâu biết thế nào là nỗi cơ cực, nhìn mọi việc rồi cũng sớm quên đi. Không trách được bởi lẽ trẻ con đâu thể sâu sắc như người lớn mà hoặc giả có sâu sắc thì tâm hồn đã chai sạn đi rôi đâu còn là trẻ con với nét thơ dại- cái thơ dại được ấp ủ bằng mồ hôi và nước mắt bà. Yêu thương cao thượng giúp cho tâm hồn tránh những bão dông. Ngày còn nhỏ, yêu bà là yêu những câu chuyện cổ tích lung linh huyền ảo: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần Bà thổi vào tâm hồn non nớt cái hồn dân tộc bao thế kỉ trong dân gian. Truyện bà kể lung linh sắc màu cổ tích, mang cháu đến với thế giới của những phép màu kì diệu: Cô Tấm chui ra từ quả thị, Lọ Lem sánh duyên cùng hoàng tử. Bà có mái tóc bạc phơ, có nụ cười hiền như bà tiên trong truyện kể. Bà doạ cháu rằng chằn tinh rất dữ, bảo cháu phải nghe lời,... Nhiều, và nhiều lắm... Chính những câu chuyện đã giúp cháu biết yêu cái thiện, ghét điều ác, có ước mơ và hy vọng. Thỉnh thoảng, tìm về tuổi thơ là tìm đến những điều như vậy, nghe lòng mình kể lại lời bà ấm áp. Tâm hồn sẽ được thanh lọc và trong sáng hơn. Cái ranh giới hư thực trong suốt như chính tuổi thơ con người vậy. Dễ tin, dễ nhớ và cũng dễ quên. Lớn lên một chút cũng là lúc phải đối mặt với hiện thực, cái đói trở thành nỗi ám ảnh triền miên: cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm Đọc câu thơ ta bỗng nhớ về khoảng thời gian: Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! (Bếp lửa - Bằng Việt) Nạn đói những năm 45 như một nỗi kinh hoàng rải khắp đất nước. Củ dong, củ riềng cũng thành bạn, sượng sùng nhưng đáng nhớ, đáng thương. Mùi huệ trắng hương trầm cũng phảng phất như cái thoáng trở về bình yên... Những đứa trẻ ngây thơ mơ về một mùi hương đã lắng sâu vào đất, tâm hồn, thân thuộc và rất đỗi bình dị. Đói kém không làm mờ đục tấm lòng trong sáng của trẻ thơ mà ngược lại nó còn gợi nên những mơ ước, cảm tình thầm kín nhưng đáng yêu. Còn lại gì giữa nỗi nhớ cái bình yên ngày trước? Nó có là hoài niệm thương đau, chua xót? Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền thánh với phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn Quê hương ngày khốc liệt in sâu vào tiềm thức khi mà những hình ảnh sự vật thân thuộc bị huỷ hoại. Bom đạn không chỉ phá nát đất quê hương mà còn xoá nhoà đi tuổi thơ tươi đẹp. Bên cạnh không gian thiên đường thuở nào là đổ nát, hoang tàn. Nhà bà, đền, chùa, tất cả tan biến đi dường như quá nhanh đối với những đứa trẻ chưa kịp lớn hoàn toàn. “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết “lay dậy niềm xót xa, như khẽ chạm vào vết đau nhạy cảm. Cái boăn khoăn hết sức trẻ con lại là niềm đau trong lòng người hiểu chuyện như bà. Không còn quá ngây thơ, có lẽ lũ trẻ hôm nào đã hiểu được cái nguyên cớ đằng sau nó. Nhưng như chưa tin vào chính mình nên mới thành nỗi băn khoăn chưa dám hỏi. Không còn nữa thánh, Phật mơ hồ, huyền diệu, thực tế dữ dội đối lập lại hoàn toàn. Còn bà vẫn vậy, lam lũ tháng ngày: “Bà tôi đi bán trứng ở ga lèn”. Khi lớn lên, con người nhận thức được đầy đủ hơn, làm thành một hành trình trở về man mác: Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. Tình cảm tập trung hướng về bà, con người lam lũ ngập tràn yêu thương. Bà nuôi lớn cháu để hôm nay cháu trở về đây chững chạc, đàng hoàng. Cháu đã và đang là một người lính bảo vệ mảnh đất này, bảo vệ những tuổi thơ như cháu ngày xưa. Chút gì là hối tiếc, yêu thương muộn màng. Đời người mấy ai mà vẹn tròn tất cả! Con sông kia cũng bên lở bên bồi như người vậy. Bảo rằng đã muộn nhưng chưa bao giờ là quá muộn cả. Yêu thương đâu cần biểu hiện rõ, cháu lớn lên thành người đã là cách thương bà tuyệt diệu nhất. Giờ đây đứng trước mộ bà những vất vả hy sinh ngày xưa càng trở nên thấm thía. Bà đã đi mang theo tất cả những điều đẹp nhất của tuổi thơ cháu bình yên trong khó nhọc. Mất đi không phải là kết thúc. Bà không còn- cháu lớn lên cống hiến cho đất nước, đó là cách tiếp nối sự sống đầy ý nghĩa. Nấm cỏ của bà chôn chặt mọi niềm đau, giữ lại miền ký ức trong sáng cho con người tìm về lúc mỏi mệt. Đất nước mình có biết bao người bà như thế! Bà là hiện thân cho phụ nữ Việt Nam hiền hậu, tảo tần hôm sớm. Những ngày đất nước chiến tranh, bà thay cha mẹ nuôi nấng con cháu, giữ cho cháu trọn vẹn một tuổi thơ. Đâu đâu ta cũng nghe nhắc về bà như một hình ảnh thiêng liêng nhất. Người bà đi vào trái tim mỗi người như một lẽ tự nhiên, là miền ký ức vĩnh hằng: Tiếng gà trưa Mang bao nhiêu hạnh phúc Đêm cháu về nằm mơ Giấc ngủ hồng sắc trứng. (Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh) Bà, tuổi thơ và những hình ảnh thân thuộc bình dị trong cuộc sống tạo nên giá trị cao đẹp nhất. Đi tìm đâu cái xa xôi khi mà hạnh phúc luôn song hành trong cuộc đời mỗi người. Nó là tình yêu thương vô điều kiện, là những tháng ngày vui chơi thoả thích. Chúng như mảng màu rực rỡ chiếu sáng tâm hồn, hướng con người về chỗ cái đẹp, cái thiện căn: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Cùng với bà, quê hương Đò Lèn hiện lên sống động giữa tuổi thơ chan hoà. Nó hiện diện trong cái nghịch ngợm thiếu thời, trong từng giấc mơ trẻ thơ, là nơi con người vẫy vùng, ngụp lặn. Mảnh đất khi thanh bình, lúc đau đớn oằn mình vì đạn bom nhưng lúc nào cũng phảng phất hương huệ thơm ngần, cái thứ hương vị đã trở thành đặc trưng tồn tại giữa tiềm thức. Đò Lèn của cống Na, chùa Trần, con sông 2 bờ bồi lở, cái tên mộc mạc mà chân tình thiết tha. Đò Lèn – nơi đó có bà, có cháu, có tất cả hoài niệm yêu thương tồn tại vĩnh hằng cùng nỗi nhớ!
Cảm nhận về bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy - Bài làm 2 Bài làm: Điều quý giá nhất đối với mỗi người có thể khác nhau, song quan trọng nhất là ta biết trân trọng và gìn giữ giá trị ấy như thế nào. Thật vậy, đối với Nguyễn Duy, tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm bà cháu luôn là một ký ức đẹp trong tim. Qua Đò Lèn, tác giả đã bộc lộ những suy nghĩ sâu lắng về bà gắn liền với sự tỉnh ngộ, nhận ra được tình thương vô bờ mà bà dành cho cháu.... Nhà thơ đã thể hiện hình ảnh của người bà qua sự hồi nhớ: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan bà đi gánh chè xanh ở Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn... Đó là tất cả những cơ cực, vất vả mà người bà đã tảo tần nuôi đứa cháu. Trong cái đói, cái khổ của thời xưa, nổi bật lên trên ấy chính là hình ảnh lam lũ của bà. “Bà mò cua xúc tép”, đó là những việc làm hàng ngày để kiếm cái ăn chăm lo cho con cháu. Ẩn hiện trong câu thơ hình ảnh bà còng lưng, nhẫn nại mò cua bắt ốc, không quản khó nhọc để niềm vui ánh lên trong những đôi mắt thơ ngây của cháu khi có miếng ăn... Thế nhưng xúc động hơn cả là hình ảnh bà đi gánh chè đêm đêm. Cái khó cái khổ đè nặng trên đôi vai gầy của bà, thể hiện trong từng bước chân “thập thững”. Chi tiết đó đủ khắc hoạ lên được bao nhiêu nhọc nhằn, khó khăn của đời bà. Bước thấp bước cao lần đi trong “những đêm hàn” buốt giá, bà trở nên bé nhỏ, liêu xiêu, nhưng chất đầy sự thương yêu đối với con cháu, để làm nên một sức mạnh có thể chống chọi được với gió đêm, để có thể tiếp tục làm việc nuôi cháu. Bà hiện lên với sự mảnh mai, nhỏ bé nhưng trên đôi vai bà gánh chè rong như gánh cả một gia đình, một tương lai của con cháu. “Mò cua xúc tép”, “gánh chè xanh” là cả một cuộc sống vất vả mưu sinh. Tuy tác giả không nói đến, nhưng hình ảnh người bà hiện lên in đậm dấu thời gian. Một người bà chịu thương chịu khó bền bỉ trong cuộc sống lam lũ, khuya sớm tảo tần. Để rồi từ đó tác giả thể hiện niềm xót xa, ái ngại cho bà. Qua hình ảnh ấy ta nhận ra đâu đó thoáng chút hình ảnh người mẹ thân thương ở thi phẩm Bên kia sông Đuống: Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp bên bờ tre hun hút .... Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ... Cũng từ trong ướt lạnh sương gió, người mẹ hiền từ với hình ảnh “bước thấp bước cao”, nhọc nhằn trên đôi vai mẹ gánh hàng rong mong kiếm được miếng ăn, tất cả cuộc sống và tương lai của các con phụ thuộc vào gánh hàng rong của mẹ. Không biết bao nhiêu người con sông Đuống đã lớn lên sau gánh hàng rong ấy. Để rồi từ đó hình ảnh người bà, người mẹ hiện lên với đức hi sinh và tấm lòng bao dung to lớn.... ...Thế nhưng, nhà thơ nói đến những điều ấy với tâm trạng “Tôi đâu biết...” khắc hoạ được những nghẹn ngào trong câu nói. Đó là cả một tuổi thơ nghịch ngợm, vô tư và hồn nhiên gắn với những trò chơi, trò đùa nghịch của trẻ con như câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim, ăn trộm nhãn, chơi đền, xem lễ... Thế nhưng để cháu được như thế, bà đã phải nhọc nhằn như thế nào. Qua đó thể hiện sự vô tư đến vô tâm, vô tính của người cháu. Phải chăng lúc ấy cháu còn thơ bé để ngẫm đến những cực khổ của bà! Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm... “Trong suốt” khắc hoạ nên sự vô tư, ngây thơ, hồn nhiên của tác giả lúc bé. “Hai bờ hư – thực”, hai thế giới khác nhau. Một thế giới hiện hữu với tất cả tình yêu thương của bà, và thế giới hư ảo, vô thực của những “tiên, Phật, thánh, thần”, những câu chuyện cổ tích... Nhà thơ không sống tất cả vì hiện tại, vì tình thương của bà, mà mải bận mơ về những chuyện hư ảo. Điều đó cho thấy tác giả sống với thế giới hư và thế giới thực lẫn lộn với nhau. Để rồi hai câu thơ sau nhấn mạnh mức độ của sự lẫn lộn ấy: những mùi hương cứ trộn lẫn lại với nhau. Hiện thực khó khăn “năm đói” làm người bà càng phải khổ cực hơn nữa. Cậu bé nhỏ khi ấy chỉ biết vui chơi chứ chưa biết nghĩ đến bà mình, lại không nhận ra giá trị “củ dong riềng luộc sượng” vất vả bà kiếm được, không biết thương bà, vô tâm, vô tính trước nỗi cơ cực của bà... Để rồi sau này, khi tác giả đã lớn, đã trưởng thành, đã nhận ra được tình yêu thương của bà dành cho mình, đã biết thương yêu bà thì bà chỉ còn là nấm cỏ: Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi... Lúc này cháu đã trưởng thành trong nhận thức về cuộc đời, không còn sống trong niềm tin về sự gần gũi, tương đồng giữa hai thế giới thực và ảo, mà đã “đi lính”, đã biết cầm súng chống lại cái ác cái xấu. Quê hương vẫn còn đấy, những địa danh vẫn còn lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, “dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi”, nhưng hình bóng của bà thì không còn nữa. Sự thức tỉnh gắn liền với sự ân hận bởi lúc cháu biết thương bà thì cơ hội đền đáp đã không còn. Chính sự tỉnh ngộ ấy khiến cho tình thương bà càng tức tưởi xót xa vì tất cả đã quá muộn màng... Thật vậy, trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có điều đáng để hối tiếc. Nhưng quan trọng nhất phải biết sống sao cho trọn vẹn với tất cả, nhất là những người thân yêu của mình. Đừng để khi có tình thương ấy mà không nhận ra, không biết gìn giữ, không biết trân trọng với những gì mình đang có cũng như để những thương yêu ta phải buồn lòng; mà mải mê mong muốn, theo đuổi những giá trị xa vời để rồi khi nó mất đi ta mới biết thương, biết quý thì tất cả cũng đã quá trễ, quá muộn...
Cảm nhận về bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy - bài làm 3 Bài làm: Quê hương là gì hả mẹ? Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hả mẹ? Ai đi xa cũng nhớ nhiều... Mỗi người sinh ra đều có một quê hương. Dù có ngược xuôi giữa biển lớn cuộc đời, dù thời gian có đổi thay, dù hạnh phúc hay đớn đau, vui buồn sướng khổ thì quê hương cũng là nơi để ta quay bước chân trở về nương tựa, tìm chốn bình yên.Bởi nơi đó chất chứa những kỉ niệm tuổi thơ một thời và tình cảm ấm áp, hồn hậu của gia đình. Là một trong số những bài thơ hoà vào cảm xúc ấy, Đò Lèn của Nguyễn Duy đã đưa mỗi người trở về miền kí ức xa xăm với tuổi thơ gắn liền với bao kỉ niệm bên người bà yêu thương. Đò Lèn – hai chữ giản dị, mộc mạc nhưng lại gợi lên tất cả những gì đẹp nhất và thân thương nhất. Ngay từ đầu, nhan đề bài thơ đã đưa đưa người đọc về với không gian mang đậm dấu ấn làng quê Bắc Bộ.Tuổi thơ là những ngày mẹ mất sớm, sống cùng với tình yêu thương bên người bà và miền quê mộc mạc, một cách tự nhiên, Đò Lèn bước vào những trang thơ với tất cả tình cảm yêu thương và chân thành nhất mà tác giả đã dành trọn cho quê hương. Bằng ánh nhìn của người con trở về, nhắc lại những kỉ niệm ngày xưa với hình ảnh người bà xuyên suốt, Nguyễn Duy đã khơi gợi lên những xúc cảm chân thành và chút man mác trong suy tư của mỗi người. Tuổi thơ là những ngày đẹp nhất và trong sáng, hồn nhiên nhất. Bởi nó trôi qua không phiền muộn, luyến tiếc mà hết sức tự nhiên, giản đơn. Chính vì thế trong lòng mỗi chúng ta luôn lưu giữ và nâng niu những kỉ niệm đẹp đẽ ấy bằng tất cả lòng trân trọng và chân thành. Và cũng như mọi người, tuổi thơ Nguyễn Duy cũng trôi qua bình lặng, êm đềm: Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá níu váy bà đi chợ Bình Lâm bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần Kỉ niệm tuổi thơ tinh nghịch, dễ thương ùa về trong tâm trí nhà thơ tạo nên cảm giác thích thú, vui tươi. Những thói quen “câu cá”, “níu váy bà đi chợ”, “bắt chim sẻ”, “ăn trộm nhãn” trở nên hết sức quen thuộc trong tuổi thơ của tất cả các cậu bé và cô bé. Ta có thể hình dung một cậu bé hiếu động, tinh nghịch luôn tìm cho mình những phút giây vui thích của cuộc sống. Đó là những ngày thơ thẩn ôm cần chờ cá cắn câu, là những ngày tò mò pha chút rụt rè, sợ hãi theo bà đi chợ, là những khoảnh khắc nín thở hái trộm nhãn cùng bạn bè. Thấp thoáng trong tuổi thơ bình yên ấy là không gian của những ngôi chùa mang đậm dấu ấn văn há đặc trưng của quê hương và hình ảnh người bà hồn hậu giàu tình yêu thương. Trong kí ức của Nguyễn Duy in đậm dấu ấn của những phong tục tập quán đặc trưng của người dân bản xứ. Yên bình, nhẹ nhàng nhưng cũng mang chút gì đó sâu thẳm, lắng trầm đọng trong sắc huệ trắng tinh khiết và mùi nhang trầm thoang thoảng chút hơi thở, hoài niệm của quê hương, tuổi thơ trong sáng của nhà thơ cứ thế trôi qua tự nhiên cùng năm tháng: Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng Không những thế, tuổi thơ còn gắn với hình ảnh người bà lam lũ, cơ cực. Bằng giọng tiếc nuối và xúc động, tác giả nhắc về tuổi thơ cũng là gợi nhắc về người bà vất vả lo toan: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn Có ai nào biết mình đã vô tình lãng quên những gì quen thuộc, gắn bó nhất với cuộc đời ta. Cậu bé ấy mải mê với những thú vui thích và những tiếng cười trong trẻo nào có biết đến nỗi cơ cực đắng cay của bà. Vừa là bà, vừa là mẹ, bà ngoại của Nguyễn Duy dồn hết tình yêu thương cho con cháu, lam lũ và cam chịu những đắng cay cốt để có thể cải thiện những khó khăn cuộc sống lúc bây giờ. Bà đã làm tất cả những công việc có thể, từ việc nặng đến việc nặng đến việc nhẹ, dù gần hay xa, thời tiết có khắc nghiệt đến mấy cũng cười hồn hậu khi mang về cho con cháu những hạnh phúc nhỏ nhoi, đơn giản. Cái dáng nhẫn nại lội sông suối, tất bật trong đêm lạnh giá làm ta nhớ đến cánh cò cơ cực trong ca dao: Cái cò lặn lội bờ sông... Bà cũng như cánh cò, mong manh, yếu đuối, lầm lụi vượt qua tất cả để che chắn, chắt chiu giữa biển đời đầy khổ cực. Đáng lẽ trong những đêm như thế, phải được ngủ trong chăn ấm thì bà lại lặn lội đến nhiều nơi,...tất cả đã in đậm vào trong tâm trí của tác giả. Trải theo bước chân của bà là những con đường quê hương gần gũi, thân quen mở ra với đồng Quan, Ba Trại, Quán Cháo, Đồng Giao – cách xa với nơi ở của tác giả. Vùng đất nhiều màu sắc gắn liền với hình ảnh người bà và những kỉ niệm tuổi thơ bây giờ chợt trở về, ngâm nga trong lòng tác giả chút gì tiếc nuối, ăn năn. Nưng tuổi thơ ấy còn in đậm dấu ấn của nạn đói những năm 1945: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh thần cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm Nạn đói bủa vây lấy cuộc sống của người nông dân. Họ đã cơ cực, thiếu thốn trăm bề nay lại còn đói khổ hơn gấp ngàn lần. Củ dong riềng luộc sượng hoang mang, mặt chát giọt nước mắt đắng cay thầm lặng của bà trong đó. Cậu bé kia ngơ ngác giữa những gì gắn bó suốt bao ngày hồn nhiên, nay sao như chợt thay đổi một cách vô hình. Nạn đói đã làm cho con người không còn mơ mộng hay hướng mình vào những điều hư vô. Người ta lo tất bật ngược xuôi để lo từng miếng ăn, cái mặc. Nhưng với những đứa trẻ, những đổi thay ấy thật khó hình dung và thích nghi nhanh được. Chính gì thế mà những suy nghĩ, băn khoăn ấy không hề được giải thích rõ ràng. Một bên là thế giới hư vô, linh thiêng của tiên, Phật, thánh thần, một bên là người bà đang đối chọi với hiện thực đầy đau thương, cậu bé chìm đắm vào ranh giới thực hư vô hình. Đặt bà vào khoảng cách với tiên, Phật, thánh thần bằng tất cả suy nghĩ hồn nhiên thơ trẻ, phải chăng cậu bé đã xem bà hiền lành, nhân từ như những vị có thể cứu nhân độ thế? Phải chăng đó là nỗi ước vọng giản đơn muốn cuộc sống được cải thiện nhờ vào phép màu của thần linh? Hay phải chăng trong tâm thức ấy, bà là cầu nối giữa bến bờ thực – hư cổ tích – hiện thực? Bà đưa cháu đến những ước mơ lấp lánh, giúp cháu hiểu ra giữa hiện thực cơ cực làm người lớn phải tất bật thì tâm hồn trẻ thơ mơ mộng làm cuộc sống tinh thần bớt khổ, bớt lo. Chính bà đã nuôi dướng cho cháu những niềm tin, suy nghĩ và khát vọng chân chính, nuôi dưỡng cho tâm hồn tinh tê đầy nhạy cảm, để mai này nó chợt rung động và khắc khoải trong những vần thơ giữa cuộc đời. Thực hư, hư thực, những cảm giác ngây thơ trong sáng ấy chợt lung linh, mông lung hơn khi một lần nữa phảng phất mùi huệ trắng hương trầm. Có lẽ mùi hương này đã in dấu đậm nét trong thơ Nguyễn Duy. Trong bài thơ “Ngồi buồn nhơ mẹ ta xưa”, nó đã thổi vào lòng người chút bâng khuâng, băn khoăn khi gợi về nỗi nhớ da diết: Bần thần hương huệ thơm đêm Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn... Vâng, hương huệ ấy, khói nhang ấy gợi về nỗi nhớ, đưa ta đến những khát vọng đến với không gian linh thiêng, ảo mộng bây giờ lại thoang thoảng trong những câu thơ khắc khoải khi nhắc về bà, về mảnh đất quê hương. Dường như mùi huệ tinh khiết, khói nhang thơm nồng vẫn còn phảng phất đâu đây trong những bài thơ, trong tâm trí người đọc. Nó làm hồn người trở nên bần thần, quên đi hết những đau khổ trần ai phải đối mặt. Và để đến khi hồn người đã trong trẻo, ngân nga thì nó lại làm dâng lên cảm giấc cay nồng nơi sống mũi, nước mắt chợt rưng rưng. Nước mắt ấy là bởi khói nhang hay bởi nỗi xúc động khi chứng kiến hiện thực khốc liệt, chứng kiến những đắng cay mà bà phải trải qua? Tình cảm yêu thương, trân trọng bà bây giờ đã trở nên thiêng liêng, đáng quý và thanh sạch hơn bào giờ hết. Nó như mùi huệ trắng tinh khôi, mùi nhang trầm ấm nồng mà không có chút bụi nào có thể vương vấn vào. Tình cảm cháu dành cho bà, mãi vẹn nguyên như thế, trong sáng như thế ngay cả trong suy nghĩ và cảm thức, trong kí ức và cả trái tim. Chút gì linh thiêng, man mác còn đọng lại đâu đây, đưa cháu về đến những kí ức đẹp với bà, với thời gian đã xa... Nhưng rồi đột ngột, tuổi thơ chợt bay biến theo tiếng bom đạn và sức càn quét của giặc Mỹ. Những kỉ niệm bên bà, bên không gian quen thuộc không còn nữa, tất cả đã bay lên theo nỗi tiếc nhớ, hoài mong. Chẳng còn yên bình, nhẹ nhàng, bây giờ chỉ còn nỗi lo lắng, ái ngại về hiện thực: Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền thnahs với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn Căn nhà những ngày gắn bó và ăn học, đền Sòng những ngày ngơ ngác chân đất đi xem lễ hội, chùa chiền những ngày hái nhãn trộm, bắt chim giờ đã bay đi tất cả, đẻ đi đến một thế giới xa xăm mà không bai giờ có thể tìm lại được. Chiến tranh khốc liệt gây bao đau thương tang tóc, làm những ngày tuổi thơ êm đềm bị chôn vùi, vụt tắt, nhưng trên hết nó đang bủa vây lấy người bà tội nghiệp. Giọng thơ có phần trách móc khi nói về hiện thực. Người ta thường cầu mng ở những bậc siêu nhiên điều bình an, hạnh phúc, nhưng bây giờ chẳng có hạnh phúc mà chỉ lại có mình bà lại cặm cụi chắt chiu từng chút một, phiêu diêu nhiều nơi. Bà giờ đây phiêu dạt trên sân ga, bán từng quả trứng, nâng niu từng sự sống, trân trọng từng hơi thở, nhịp tim. Phải chăng trong suy nghĩ của tác giả, bà bây giờ cũng giống như tiên,Phật,thánh thần, gửi những hạnh phúc, sự sống theo hành trình của chuyến tàu về những nơi khác? Bà đứng ở sân ga để chắt chiu, chu cấp cho cuộc sống nhưng cũng là để dõi mắt theo những chuyến tàu, trông đợi bước chân cậu bé ngày xưa đi lính trở về. Bà đã chờ cùng tháng năm, cùng hành trình của cuộc kháng chiến, cùng khổ đau....nhưng chỉ tiếc, khi cháu trở về thì bà đã không còn nữa: Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi. Thời gian qua, tuổi thơ cũng qua, bây giờ miền quê ấy đón bước chân trở về của cậu bé năm nào. Cũng vẫn là những không gian quen thuộc, dòng sông nối liền quá khứ, hiện tại vẫn chảy tràn trong tâm trí người trở về, nhưng man mác nỗi đau khi vắng bóng người bà yêu thương. Bà đã nằm xuống đất, hoà mình vào với cỏ cây, đi đến thế giới linh thiêng trong truyện cổ tích thuở thiếu thời của cậu bé. Cái dáng cam chịu, lam lũ, tất bật không còn nữa, thay vào đó là khoảng trống vô hình đang lan rộng ra trong trái tim. Cậu bé bây giờ đã lớn, đã từng trải với cuộc đời, những suy nghĩ, cảm thức hồn nhiên không còn nữa, chỉ có tình yêu thương bà vẫn dạt dào, vẹn nguyên. Cảm xúc nhịp nhàng trôi chậm theo nhịp thơ lặng lẽ giờ đây được thẻ hiện chân thành, rõ ràng hơn bao giờ hết. Không bóng bẩy, hào nhoáng, không hình thức phô trương, tình cảm của cháu dành cho bà giản đơn nhưng sâu thẳm, bền bỉ. Tuổi thơ trải dài theo nỗi nhớ, gắn với kí ức và hình ảnh người bà quen thuộc thân thương. Trải qua những biến cố cuộc sống, những đổi thay về không gian và thời gian, nhưng tình yêu của cháu dành cho bà là mãi mãi. Lạnh lùng và có phần thản nhiên trong cách thể hiện, nhưng chất chứa cùng những hình ảnh, giọng điệu là cảm xúc về nơi mà mình đã từng gắn bó, những kỉ niệm mà mình đã trải qua và những nỗi nhớ yêu thương cho bà, để khi tất cả khép lại, ta chợt giật mình nhận ra, hình như có một giọt nước mắt đang rơi giữa cuộc đời...
Cảm nhận về bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy - bài làm 4 Bài làm: Trong phong trào thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy xác lập được một lối đi riêng: không ngang tàng, “bụi bặm” theo kiểu Phạm Tiến Duật, không gân guốc như Nguyễn Đức Mậu hay nghiêm trang như Nguyễn Khoa Điềm, mà nghiêng về quan sát, phân tích đời sống rồi bằng trải nghiêm cá nhân rút ra những triết lí bất ngờ và sâu sắc. Hơi ấm ố rơm, Tre Việt Nam,... đều cùng mạch suy tư khởi nguồn từ những điều bé nhỏ. Đọc Nguyễn Duy thường bắt gặp những xúc cảm đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết trong ta thành kí ức cội nguồn, thành tâm thức văn hoá, như mùi hương tuổi thơ, dẫu phảng phất mơ hồ mà không thể nào quên được. Đò Lèn, được viết sau ngày đất nước đã im tiếng súng, con người trở lại quỹ đạo của đời sống hoà bình, nhưng ở đây vẫn nguyên vẹn là một Nguyễn Duy đắm sâu triết lí mà thanh thoát nhẹ nhõm trong hơi thơ dân dã tự nhiên, một cái tôi nghệ sĩ có khả năng nối kết từ hồi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc. Bài thơ triển khai kết cấu theo dòng chảy của hoài niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt ngào mà hoá ra xa xót, ngậm ngùi: Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị rồi giãi bày: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế rồi suy tưởng: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực rồi kể lể: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại. Đại từ “tôi” bé nhó, cá nhân, có vẻ âm thầm nữa, không phải cái thế kiêu bạc của người lính chiến “ung dung buồng lái ta ngồi” (Phạm Tiến Duật) mà trĩu nặng những ân tình, những bộc bạch, sẻ chia. Cái tôi hồi ức, kể lể, giãi bày ấy là cầu nối hai mạch thơ, hai tính chất của bài thơ này: mạch tự sự và mạch trữ tình, tính chất “kể lại, phản ánh” (một câu chuyện) và “suy tưởng, chiêm ngẫm, cảm xúc” (những nông sâu lẽ đời). Đó là một kết cấu có thể tìm được ở nhiều bài khác (ví dụ Bát nước ngô của mẹ Việt ở Cam Lộ , Bầu trời vuông , Tiếng đàn bầu , Hơi ấm ổ rơm ). Nét riêng biệt của Đò Lèn có lẽ nằm ở những sức níu tương phản: hiện thực (cái đói, chiến tranh) và tâm linh (tiên, Phật, thánh thần), lịch sử và đời thường / cá nhân (bà, tôi). Và điêu kì lạ được cảm nhận từ sức mạnh của những tương phản là: cái đói không huỷ diệt được cái đẹp tâm linh trong khi chiến tranh (bom Mĩ giội) thì huỷ diệt được cả tiên, Phật, thánh thần. Nhưng cả đói nghèo lẫn sự tàn khốc của chiến tranh bất ngờ lại tôn lên sừng sững, vững chãi hình ảnh người bà. Do đó, một măt bài thơ là hiện thực, một hiện thực dữ dội, khủng khiếp (“nhà bà tôi bay mất”, “bay tuốt cả chùa chiền”, “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết”), mặt khác cũng là tâm linh (“cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”) và một hình ảnh đời thực: “bà tôi di bán trứng ở ga Lèn”. Sức mạnh của con người trong đời thực, vượt qua những chấn động lịch sử, sẽ còn ám ảnh hơn cả “mùi huệ trắng, hương trầm”. Cảm hứng về cái đẹp (hồi ức tuổi thơ) sẽ dần chuyển sang cảm hứng về cái thường nhật (trong sự đối sánh với cái thiêng - giờ đã bị giải thiêng). Ngôn ngữ thơ ở Đò Lèn giản dị, trong sáng, không một từ nào khó hiểu, nhưng khi đứng cạnh nhau trong một câu thơ, những câu cạnh nhau thành bài thơ, tất cả tạo nên một ám ảnh da diết lạ lùng. Kí ức về tuổi thơ như ánh chớp loé lên những ấn tượng sống động, hiện hữu: hành động (níu váy bà), thú vui (câu cá, bắt chim sẻ, hái trộm nhãn), mùi hương (mùi huệ trắng, khói trầm), một âm thanh điệu hát chầu văn, một dáng người lảo đảo,... Những địa danh cống Na, Bình Lâm, chùa Trần, đền Sòng, đền Cây Thị,... thân thuộc với tác giả, cũng không hề xa lạ với bất cứ người dân Việt Nam nào từng sống ớ thôn quê. Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ phác vài nét bút đã có thể làm rõ, chẳng hạn hình ảnh một cậu bé “níu váy bà đi chợ Bình Lâm”, “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng”; nhưng tài tình hơn là khả năng làm mờ, làm ảo hoá không gian, bằng và trong ngôn ngữ, ở hai câu thơ đẹp như ảo ảnh: mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng. Ngoài từ “thơm lắm” là một ấn tượng rõ (một xúc cảm ngây thơ) thì mồi chữ trong hai câu này đều ảo. Mùi huệ thơm, nhưng là mùi thơm “trắng”, lại quyên với khói trầm trắng đục trở thành mùi hương duy nhất, hương kỉ niệm, hương tuổi hoa niên “thơm lắm”, không gì thay thế được. Điệu hát văn là âm thanh, nhưng cũng là hình ảnh cô đồng “lảo đảo”. Những từ ngữ đều nghiêng về cảm giác, hoặc nhìn ra cái hư ảo: mùi, trắng, quyện, khói, thơm, bóng, láo đảo,... Ngữ pháp câu thơ cũng đặc biệt mà nếu thử phân tích chủ - vị hoặc tìm các cách ngắt nhịp sẽ thấy tính chất nhoè mờ của nó. Có rất nhiêu đoán định khác nhau từ các khá năng ngữ pháp của hai câu thơ này: mùi huệ trắng là chủ, nhưng cũng có thô “mùi huệ trắng quyên khói trầm” là chủ, mà “mùi huệ”/”trắng quyện khói” xem ra vẫn ổn. Cũng vậy, ở câu thứ hai có thể là: (trong) “điệu hát văn” “lảo đảo bóng cô đồng”/”điệu hát văn” (làm) “lảo đảo bóng cô đồng”,”điệu hát văn” và “bóng cô đồng” cùng “lảo đảo”,... Câu trên là một hương thơm ảo, màu sắc ảo (hương huệ, hương trầm, màu trắng hoa huệ, màu khói) câu dưới là một hình bóng ảo (cô đồng), một âm thanh ảo (điệu hát văn), bóng cô đồng lảo đảo đi ra từ điệu hát văn, chứ không phải một cô đồng thật (huống hổ lại là “bóng”!). Kí ức của nhà thơ làm sống dậy một không gian say người: say vì hương thơm và âm nhạc, say vì một cái gì thuộc về tâm linh, ảo diệu. Một cặp câu thơ tạo không gian “nhập đồng”. Và đó là cái nhìn của hồi ức, là nét vẽ của hồi ức, phi lí tính. (Nó cũng giống như khi Nguyễn Duy viết về Đà Lạt một lần trăng : Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng Ngọn gió nhà ai thấp thoáng bên đồi Tiếng vó ngựa gõ ròn trên dốc vắng Nghe mơ hồ một tiếng lá thông rơi... Mỗi câu thơ đều tinh đến từng chữ, mà cái tinh cứ tự nhiên như không chút dụng công). Những câu lạ của Đò Lèn chính là những câu thơ đưa dẫn về phía tâm linh, bằng cảm nhận nguyên sơ của con trẻ: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm “Trong suốt” là một cảm nghiệm tâm linh, hay là một ảo giác, một tín ngưỡng của tâm hồn thơ dại giữa hư - thực, bà - tiên, Phật, thánh, thần? Thực ra đâu sẽ là hư, đâu là thực? Người bà cụ thể là thực chăng? Nhưng cũng là hư khi có bao điều quan trọng mà “tôi đâu biết”. Tiên, Phật, thánh, thần,... là hư mà cũng đã từng là thực trong niềm tin tuổi nhỏ. Ở đây, những tương phản tạo thành sức ám ảnh của từ ngữ, hình ảnh thơ như hư - như thực, cái hiện thực (củ dong riềng luộc sượng) - cái tâm linh huyền ảo, hay niềm tin lãng mạn vượt lên hiện thực ấy (mùi huệ trắng, hương trầm thơm). Cái đói là một hiện thực, nhưng nó không giết được cái đẹp. Nó giữ người ta ở trạng thái “trong suốt” - độ trong nhìn xuyên thấu, một trạng thái tồn tại không còn thân thể, một trạng thái hoà nhập tâm linh. Trong suốt chứ không phải trong veo trẻ thơ (“Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước” - Hoàng Nhuận Cầm ), không phải trong trắng, trong sạch, trong biếc,... Trong suốt, là một cảm giác tâm linh. Trong dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà là một ám ảnh, một niềm vui, một xa xót, một ăn năn,... Trở lại câu hỏi: Người bà là hiện thực hay là hình ảnh của tâm linh? Nhiều bạn đọc chắc còn nhớ đến người bà tảo tần cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. (Bếp lửa) Và đây, người bà cơ cực như biết bao người bà, người mẹ Việt Nam, trong thơ Nguyễn Duy: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn. Những địa danh riêng ở đây vẫn đem lại cảm xúc chung về quê hương nguồn cội; người bà tuy là của “tôi” nhưng chẳng hề riêng tư. Chỉ với một từ “thập thững”, người đọc đã như nhìn thấy những bước chân già nua trong giá rét: thập thững, không phải chập chững (bước chân của đứa trẻ đặt lên mặt đất từng bước một), như có cả hơi thở dồn. Không hoàn toàn giống đôi chân “Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” đầy hốt hoảng trong câu thơ Hoàng Cầm, mà là bước đi thường ngày của người già: bước đi lên - xuống theo nhịp quang gánh trĩu xuống, yếu ớt, bước đi gây cảm thương... Nó thành một từ ám ảnh mà âm thanh khi đọc lên đã tạo sắc thái ý nghĩa. “Tôi đâu biết” là một cái giật mình, một nỗi xa xót, như cái giật mình, xa xót của bao nhiêu người con khi nghĩ về mẹ, vé bà - những người đàn bà Việt Nam. Hướng về cuộc đời cơ cực ấy, ngôn ngữ bài thơ cũng chân thực, dung dị. Đó là người bà của đời thường, xa lạ với cái nhìn thi vị, lí tưởng hoá. Ý thức này ở Nguyễn Duy rất mạnh, ông thường khắc hoạ hình tượng mẹ theo cách này: Mẹ ta không có yếm đào Nón mê thay nón quai thao đội đầu Rối ren tay bí tay bầu Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa. Đò Lèn còn một hình ảnh về người bà được viên nổi trong không gian hiện thực dữ dội: Bom Mĩ giội, nhà bà tôi hay mất đền Sông hay, bay tuốt cả chùa chiền thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn. Cách dùng khẩu ngữ và giọng suồng sã của đời sống với lối nói “bay mất”, “bay tuốt”, “rủ nhau đi đâu hết” mang nét nghĩa mai mỉa càng làm rõ cái khốc liệt của chiến tranh. Tác giả không chỉ tạo một cảm giác “sốc” về sự kiện (bom Mĩ giội), mà còn tạo một con “sốc” cảm xúc hẫng hụt (“thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết”),... Chùa chiền, thánh, Phật là huyền thoại, là tín ngưỡng, nhưng cũng vẫn là cái khả biến, hoặc có thể chỉ là cái vỏ của huyền thoại mà tuổi thơ cả tin chẳng thể nhận ra. Vậy đó, chiến tranh, bom Mĩ và sức tàn phá dữ dội của nó làm người ta thấy rõ: chẳng có gì kì diệu hơn sức mạnh của con người, kì diệu sao là sức mạnh của con người bình thường, bé nhỏ: “Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Bình tâm như không là cái phi thường nhất trong bối cảnh hiện thực bất thường ấy! Nếu theo mạch cảm hứng của thơ ca thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ, có thể hình ảnh này sẽ khơi nguồn cho một huyền thoại mới: huyền thoại về con người. (Chẳng hạn, như đã từng thấy trong thơ Tố Hữu một mẹ Tơm “Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non”, “Sông trong cát chốt vùi trong cát - Những trái tim như ngọc sáng ngời”; một mẹ Suốt “Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung - Gió lay như sóng biển tung trắng bờ”,...). Nhưng Nguyễn Duy không dừng ở cảm hứng khẳng định sức mạnh kì diệu của con người, không nhập vào dòng huyền thoại để ngợi ca, dù hình ảnh người bà bán trứng ừ ga Lèn xứng đáng là một trong những hình ảnh khắc ghi sâu đậm về con người Việt Nam trong cảnh “bom Mỹ giội” gợi triết lí về cái đời thường và cái lịch sử, cái khả biến và bất biến,... Khổ cuối cùng của bài thư vần đọng kết một nỗi buồn sâu, buồn lâu và một suy ngẫm phổ quát về những kiếp người bình dị, vô danh: Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở, bên hồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ cồn là một nấm cỏ thỏi. Cách kể “Tôi đi lính, lâu khống về quê ngoại” tưởng như lời tự sự bình thường, nhưng ngẫm ra, nó chất chứa trong đó cả một quá khứ, nén dồn thời gian dằng dặc của một cuộc chiến tranh, những nén dồn tâm trạng, vì con người bị cuốn theo dòng cháy lịch sử, không được sống với đời thường. Nhiều người đã biết đến cái “nấm cỏ khâu xanh rì” như một triết lí buồn vể thân phận con người (“Trăm năm nào có gì đâu - Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì” - Cung oán ngâm khúc ), hay cái nấm đất “sè sè” của Nguyễn Du bên con đường dập dìu bước chân trai thanh gái lịch như dinh mệnh dành cho ke “hồng nhan đa truân” (“Sè sè nấm đất bên đường - Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” - Truyện Kiều). Ở Đò Lèn của Nguyễn Duy, cái “nấm cỏ khâu” kia, cái “nấm dât sè sè” ấy, tròn nhỏ lại thành “nấm cỏ” ám ảnh hơn vì nó Việt Nam hơn, và càng ám ảnh khi đặt nó vào dòng thác cuộn chảy của lịch sử. Thiên nhiên thì vẫn vậy “dòng sông xưa vãn bên lở, bên bồi”, chỉ có con người đã thành hư vô. Những cuộc biến thiên dâu bể tác động mạnh không chỉ đến một dân tộc, đến những cái thuộc về tín ngưỡng của dân tộc, không chỉ làm bay mất cả đền chùa miếu mạo mà cụ thể hơn, máu thịt hơn, nó hằn dấu lên kí ức con người, lên thân phận con người. Từ cách nhìn đó, bài thơ tưởng chừng rất cá nhân (cá nhân đến từ cái nhan đề Đò Lèn) lại mang đậm một cảm hứng lịch sử, một cách nhìn lịch sử, một sự “nhận thức lại lịch sứ”. Nằm trong mạch suy ngẫm đó, những tác phẩm tự sự sẽ có tiếng nói lớn hơn (chẳng hạn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay một số truyện ngắn mượn chất liệu lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp ,...). Tuy nhiên, thư “nói nhó”, nói nhẹ và buồn nhưng thấm thìa theo cách riêng. Chuyện thánh thần bay mất... vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác kẻ thù (vì tàn phá đến cả tín ngưỡng thiêng liêng) vừa hoá giải huyền thoại của một niềm tin ngây thơ, nông nổi (những cái dó mà cũng “bay mất”, “bay tuốt”) - nhất là khi ngôn từ thơ dầy chất suồng sã, hài hước thì cảm giác hoá giải huyền thoại càng rõ, vừa để khẳng định sức sống của những con người bình thường như “bà tôi” vừa giã từ ảo tưởng về quyển năng thần thánh. Cuối cùng, “bà tôi” cũng như bao con người xứng dáng là huyền thoại ấy lại trở về với “nấm cỏ” vô danh, khiêm nhường, nhỏ bé mà vĩnh hằng. Người ta vốn chỉ quen nhớ lịch sử theo những dấu mốc sự kiện; còn những phần chìm lấp, dễ bị lãng quên, những cá nhân nhỏ bé sẽ được ai nhớ đến nếu không phải thơ ca, không phải nghệ thuật? Cái buồn ở bài thơ để lại ấn tượng đậm nét hơn cái đẹp, cái lãng mạn tâm linh, nhưng hoàn toàn có cơ sở để tin rằng thánh thần, chùa chiền có thể bay mất, riêng cái mùi hương trầm, huệ trắng vẫn sẽ thơm mãi trong kí ức con người - đó là một sức mạnh tâm linh không gì huỷ diệt được. Quả là sức nén, sức ám ảnh của một bài thơ, có thể đáng sợ hơn một tiểu thuyết, điều này không phải là một cách nói ngoa.