Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh người lao động trên biển trong “Đoàn thuyền đánh cá”

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    • Mở bài:
    Trở về với cuộc sống mới, Huy Cận lập tức tìm cách hòa nhập với mọi người, với nhiệm vụ của đất nước. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là bài ca dạt dào niềm vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống mới; là tiếng reo vui của nhà thơ trước sức sống mạnh mẽ của nhân dân, đất nước. Nổi bậc trong bức tranh lao động là vẻ đẹp hình ảnh người lao động trên biển, khỏe khoắn, mạnh mẽ và tràn đầy niềm tin tưởng. Họ làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống, làm chủ cả thiên nhiên và vũ trụ.
    • Thân bài:
    Sự kết hợp hài hòa giữa hai nguồn cảm hứng: cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới đã làm nên vẻ đẹp bài thơ. Thế nhưng, cảm hứng chủ đạo vẫn là cảm hứng về con người trong cuộc sống lao động mới. Thiên nhiên, vũ trụ chỉ là nền cảnh để vẻ đẹp con người lao động kiên cường tỏa sáng.

    Phân tích và so sánh hình ảnh “trăng” qua các bài thơ “Đồng chí”, “Đoàn thuyền đánh cá”, “Ánh trăng”
    Trong bức tranh lao động trên biển ấy, hình ảnh con người hiện lên phi thường, kì vĩ. Họ ra khơi với niềm vui, niềm hăm hở chinh phục sông dài, biển rộng:

    Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
    Câu hát căng buồm cùng gió khơi

    Hình ảnh “đoàn thuyền” ào ạt ra khơi gợi không khí đông vui trên bến cảng, gợi lối làm ăn tập thể của Hợp tác xã đánh cá Hạ Long. Phụ từ “lại” chỉ hành động lặp lại nhiều chứng tỏ cảnh những đoàn thuyền ra khơi trong những chiều hoàng hôn đó là nếp sinh hoạt quen thuộc của bà con vùng mỏ Quảng Ninh. Âm thanh tiếng hát vang vang… Biện pháp nói quá gợi hình ảnh đẹp “gió căng buồm” đẩy thuyền lướt nhanh. Nó còn bộc lộ niềm hăm hở, phấn chấn của người lao động muốn ra khơi chinh phục biển trời, mang về những phẩm vật quý giá của biển khơi.

    Người lao động ở vị trí trung tâm, tư thế hoàn toàn chủ động khi làm chủ quê hương, làm chủ cuộc đời. Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng nước:

    Thuyền ta lái gió với buồm trăng
    Lướt giữa mây cao với biển bằng
    Ra đậu dặm xa dò bụng biển
    Dàn đan thế trận lưới vây giăng

    Giọng thơ chứa đầy niềm tự hào, yêu thương khi khẳng định “thuyền ta” là hình ảnh hoán dụ chỉ những con người lao động. Động từ “lướt” chỉ sự chuyển động nhanh, nhẹ nhàng phơi phới. Biện pháp nói quá tạo vẻ đẹp con thuyền như chắp cánh bay lên. Người lao động đang ở tư thế trung tâm của vũ trụ, sánh ngang tầm với vũ trụ thiên nhiên. Cuộc chinh phục thiên nhiên của người lao động không ít những khó khăn. Biển khơi lấy gió để cản bước biến, lấy độ xa để đo chí, độ sâu để thứ thách lòng can đảm.

    Người lao động đã vận dụng kinh nghiệm “cha truyền con nối” để bẻ cánh lái theo chiều gió, dùng sức mạnh của đội thuyền của họ để xông thẳng ra khơi xa, áp dụng khoa học kĩ thuật để “dò bụng biển”. Lao động của họ có sức mạnh của tập thể. Bước vào buổi lao động như người chiến sĩ bước vào một trận chiến đấu. Với họ, “biển khơi là chiến trường, lưới thuyền là vũ khí, ngư dân là chiến sĩ. Hậu phương thi đua với tiền phương”. Họ cần cù ân cần cống hiến cho bến cảng quê hương.

    Ta hát bài ca gọi cá vào
    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
    Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
    Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

    Thời gian trong thơ dịch chuyển “trăng cao” rồi “sao mờ” chứng tỏ họ đã làm việc miệt mài suốt đêm qua. Lao động của họ vất vả nhưng tiếng hát lời ca vẫn thể hiện niềm lạc quan phơi phới. Trong nền bình minh, thư thế của người lao động đang kéo lưới tạc vào đất trời vẻ đẹp rắn rỏi, chắc nịch như một bức tượng đồng. “Chùm cá nặng” là thành quả thu được sau một đêm nhọc nhằn.

    Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới. Họ hiểu đại dương và đêm tối như thấu hiểu chính mình. Niềm tin và ý chí của họ tràn ngập trong gió, trong sóng, trong từng hơi thở của vũ trụ:

    Câu hát căng buồn cùng gió khơi
    Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

    Âm thanh tiếng hát vang suốt hành trình ngày lao động. Tiếng hát lặp đo lặp lại bốn lần như một bài ca lao động hăng say. Tác phẩm nhân hoá đoàn thuyền cùng mặt trời chạy đua để về kịp bến cảng sớm nhất. Chi tiết “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” chứng tỏ con người đã chiến thắng thiên nhiên.

    Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.
    • Kết bài:
    Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người lao động trên biển, vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp con người lao động mới, ca ngợi khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước: Tập làm chủ, tập làm người xây dựng. Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Bài tham khảo:

    Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
    • Mở bài:
    Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1930 và của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác trong một chuyến đi thực tế dài ngày ờ vùng mở Quảng Ninh. Bài thơ tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động của một vùng biển giàu đẹp ở miền Bắc trong những năm đẩu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không khí lao động vui tươi, sôi nổi, khẩn trương của những người ngư dân được thể hiện rõ qua khổ thơ đầu và khổ thơ cuối của bài thơ.

    • Thân bài:
    Khổ đầu và khổ cuối của bài thơ là hai bức tranh thiên nhiên lúc hoàng hôn và bình minh, cảnh đoàn tàu ra khơi và trở về, tuy cảnh khác nhau nhưng đều góp phân làm nôi bật hình ảnh con người mới: yêu lao động, có tinh thân trách nhiệm, yêu cuộc sống…

    Hình ảnh đoàn thuyền hừng hực khí thế ra khơi đánh cá qua khổ thơ đầu:

    “Mặt trời xuống biển như hòn lửa
    Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
    Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
    Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

    Cảnh hoàng hôn từ trên biển được miêu tả thật ấn tượng, rực rỡ ánh sáng. Hình ảnh so sánh “như hòn lửa ” gây sự chú ý mạnh mẽ. Cách so sánh độc đáo, sáng tạo bất ngờ gợi cho ta cảnh mặt trời từ từ lặn xuống biển, để lại những tia nắng cuối ngày trong khoảng không gian bao la của vũ trụ. Mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ, thật rực rỡ, huy hoàng đang chìm dần xuống biển. Phép so sánh độc đáo càng nâng cao hơn nữa sự kì vĩ, huy hoàng rực rỡ của mặt trời.

    Phép nhân hóa “sóng cài then, đêm sập cửa” diễn đạt bước di của thời gian: vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, không gian yên tĩnh chuyển từ trạng thái động sang tĩnh. Màn đêm buông xuống thật nhanh. Cách cửa vũ trụ đã khép lại mở ra một không gian mới: không gian của cuộc sống lao động của con người.

    Hình ảnh con người lao động trên biển hăng say với niềm tin chiến thắng:

    Trên nèn cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ là hình ảnh người lao động trên biển. Hình ảnh đoàn thuyền hừng hực khí thế ra khơi biểu hiện sức mạnh của người ngư dân, của tập thể lao động đoàn kết, với sức mạnh làm chủ hoàn cảnh. Khi ánh sáng ban ngày dàn tắt, màn đêm chiếm ngự không gian, vũ trụ đi vào yên nghỉ thì cũng là lúc họ bắt đầu công việc, bắt đầu một ngày lao động mới

    Bút pháp lãng mạn, hình ảnh tưởng tượng độc đáo, bay bổng: “Câu hát căng buồm cùng giỏ khơi”. Tiếng hát là biểu tượng của niềm vui, niềm lạc quan yêu đời, niềm hân hoan trong cuộc sống. Chi tiết tưởng tượng đó thể hiện niềm hân hoan bất tận trong tâm hôn con người. Niềm vui đó lan tỏa vào không gian, tạo hứng khởi cho con người bắt tay vào công việc lao động.

    Đoàn thuyền ra đi trong một không khí vô cùng hào hứng, một hình ảnh đẹp và nên thơ. Ta thấy hình ảnh chiếc buồm căng không chỉ vì “gió” mà còn do ngập cả không gian bao la, tiếng hát vang lên trong tâm tư người đánh cá, trong niềm mê say sự giàu đẹp của biển cả mênh mông. Từ “lại” diễn tả sự lặp lại nhiều lần, tính chất đều đặn, thường xuyên của một công việc…

    Khổ thơ đầu ngợi ca sự khỏe khoắn của con người trong lao động, với cảnh ra khơi đầy khí thế, hăng say, phấn khởi và thiên nhiên biển cả đẹp đẽ, bao la.

    Hình ảnh đoàn thuyền trở về trong thắng lợi qua khổ thơ cuối:

    Sau một đêm làm việc miệt mài, hăng say giữa biển khơi, con người đã thu hoạch được những thành quả mĩ mãn. Niềm hi vọng, ước mơ lúc ra khơi giờ đây đã trờ thành hiện thực. Cảnh bình minh trên biển mở ra một không gian mới. Chi tiết tưởng tượng lãng mạn “câu hát căng buồm” được lặp lại thể hiện niềm vui bất tận, sảng khoái của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả. Tầm vóc con người trở nên lớn lao phi thường. Họ hoàn toàn chủ động, làm chủ tình huống, làm chủ cuộc sống và thiên nhiên.

    Biện pháp tu từ nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” khiến cho hình ảnh hào hùng, vừa chân thực vừa lãng mạn. Nếu ở khổ thơ đầu, thiên nhiên đối lập với hoạt động của con người thì ở đây thiên nhiên đồng hành cùng con người, hỗ trợ con người hoàn thành công việc lao động và nâng đỡ con người về với đất liền.

    Hình ảnh bình minh hoành tráng, rực rỡ và gợi cảm hơn nhờ phép nhân hóa “mặt trời đội biển nhô màu mới”. Dưới ánh bình minh báo hiệu một ngày mới tinh khôi, con người đã trở về. Thiên nhiên hòa quyện vào công việc lao động của con người, chứng kiến thành quả lao động tốt đẹp của con người.

    Bài thơ có giọng điệu tươi tắn, khí thé khẩn trương cũng góp phần bộc lộ sâu sắc cảm xúc chủ đạo xuyên suốt các khổ thơ: niềm vui trước cuộc sống mới, niềm tự hào của con người được làm chủ cuộc đời của chính mình.
    • Kết bài:
    Hai khổ thơ là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đặc sắc. Bức tranh thiên nhiên kì vĩ, cuộc sống lao động sinh động phản ánh hiện thực cuộc sống lao động khẩn trương, sôi nổi tràn ngập niềm vui của những năm đầu hòa bình lập lại ở miền Bắc nước ta. Trung tâm của bức tranh là hình ảnh con người mới với tinh thần lạc quan, yêu đời, không khí hăng say lao động, với tư thế của người làm chủ thiên nhiên, đất nước, làm chủ cuộc sống, làm chủ bản thân. Hai khổ thơ còn là một bài ca lao động, một khúc ca ca ngợi cuộc sống mới và phẩm chất con người mới trong lao động.