Cảm nhận về tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Cảm nhận về tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu - Bài làm 1

    Bài làm:
    Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn Dục Thuý sơn khắc thạch , Linh tế tháp ký, Khai Nghiêm tự bi, Bạch Đằng giang phú,... Trong thơ văn cỗ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác. Chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài:

    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu,
    ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301-1354.
    Bạch Đằng giang phú được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên... đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về Bạch Đằng giang phú này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
    Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy phạm rõ rang. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo:

    ...Tiếng thơm đồn mãi,
    Bia miệng không mòn.
    Đến chơi sông chừ ủ mặt
    Nhớ người xưa chừ lệ chan...
    Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gán liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Tác giả khẳng định: Núi sông hiểm trở, nhiều nhân tài hào kiệt đã tạo nên truyền thống anh hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của Bạch Đằng giang phú.

    Giương buồm giong gió chơi vơi.
    “Khách có kẻ” trong Bạch Đằng giang phú là nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật “khách” không mấy xa lạ. Ngọc tỉnh liên phú (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (?-1346) cũng có nhân vật “khách”:

    Khách có kẻ: nơi nhà cao tựa ghế,
    trưa mùa hạ nắng nồng.
    Ao trong ngắm làn nước biếc,
    Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung.
    “Khách” ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tấm lòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.
    Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu cho thấy “khách” là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Đêm thì “chơi trăng mải miết”, ngày thì:

    Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương;
    Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt,...
    Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,... đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên một cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thói “giang hồ” của mình:

    Nơi có người đi
    Đâu mà chẳng biết.
    Các địa danh xa lạ không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và “tráng chí bốn phương” mới có thể “giương buồm...lướt bể” đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà “khách” đã “chứa vài trăm trong dạ”, đã thăm thú nhiều lần đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. Vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn “tha thiết” với bốn phương trời.

    Đầm Văn Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
    Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ “nhàn” làm trọng, gián tiếp phủ định lợi danh tầm thường.

    Qua cửa Đại Than... đến sông Bạch Đằng
    Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui thú của nhà thơ khi đến chơi sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa “học Tử Trương” đi về phía Đông Bắc “buông chèo” cho thoả chí “tiêu diêu”. Người xưa nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký bất hủ, là nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem là nhà du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

    Qua cửa Đại than, ngược bến Đông Triều,
    Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo
    Bát ngát sóng kình muôn dặm
    Bạch Đẳng giang, con sông oai hùng của Tổ quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc. Cuối thu (ba thu) nước trời một mầu xanh bao la:

    Bát ngát sóng kình muôn dặm
    Thướt tha đuôi trĩ một màu
    Nước trời: một sắc
    Phong cảnh: ba thu.
    Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài Đằng Vương các : “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc... Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối; Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô” (Bạch Đằng giang – dịch nghĩa). Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, đã tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

    Bờ lau san sát
    Bến lách đìu hiu
    Sông chìm giáo gãy
    Gò đầy xương khô
    Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu, hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xương cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỷ sau Ức Trai cũng viết:

    Ngạc chặt kình băm non lởm chởm
    Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng
    (Cửa biển Bạch Đằng )
    Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những đường nét, máu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng mói về dòng sông lịch sử hùng vĩ được miêu tả qua những cặp câu song quan và thứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (1288) nhà thơ đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

    Buồn vì cảnh thảm
    Đứng lặng giờ lâu
    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
    Một tâm trạng: “buồn, thương tiếc”, một cảm xúc “đứng lặng giờ lâu” của “khách” đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông vá sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung “uống nước nhớ nguồn”:
    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi
    Các bô lão – nhân vật thứ hai xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả và trữ tình, nhà thơ chuyển sang tự sự, ngôn ngữ sống đọng biến hoá hẳn lên, Cảm hứng lịch sử mang âm điệu anh hùng ca dâng lên dào dạt như những lớp sóng trên sông Bạch Đằng vỗ. Khách và bô lão ngắm dòng sông, nhìn con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng oanh liệt của tổ tiên:
    Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
    Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Cảm nhận về tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu - Bài làm 2

    Bài làm:

    Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Phúc Thành, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình). Ông xuất thân là môn khách của Trần Quốc Tuấn, tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm. Ông tham dự cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Năm 1308, ông được vua Trần Anh Tông bổ Hàn lâm học sĩ. Đời Trần Minh Tông giữ chức Hành khiển. Sang đời Trần Hiến Tông năm 1339 làm môn hạ hữu ty lang trung, đến đời Trần Dụ Tông năm 1342 đổi sang tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang, rồi thăng tả gián nghị đại phu năm 1345 và năm 1351 làm tham tri chính sự.
    Các tác phẩm nổi tiếng của ông 4 bài thơ và 3 bài văn: Dục Thuý Sơn khắc thạch, Linh Tế tháp kí, Khai Nghiêm tự bi, Bạch Đằng giang phú,... Trong thơ văn cổ Việt, Bạch Đằng giang phú được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên... đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về Bạch Đằng giang phú này dựa trên van bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
    Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú có thể và phú Đường luật. Phú cổ thế như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chẽ, có những kiểu câu được qui phạm rõ ràng. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết theo lời phú có thể, có vần nhưng vẫn sử dụng phép đối rất sáng tạo:

    ... Tiếng thơm đồn mãi
    Bia miệng không mòn.
    Đến chơi sống chừ ủ mặt
    Nhớ người xưa chừ lệ chan...
    Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ; dòng sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi bao anh hùng, gắn liền với chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng. Nhà thơ khẳng định: Đất nước hiểm trở, nhiều nhân tài, hào kiệt đức cao đã tạo nên truyền thống anh hùng của dân tộc, sự bền vững của Tổ quốc muôn đời. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc là cảm hứng chủ đạo của Bạch Đằng giang phú.
    1. Giương buồm trong gió chơi vơi
    Khách có kẻ trong Bạch Đằng giang phú là nhân vật trữ tình, không ai khác mà đó chính là Trương Hán Siêu. Trong các bài phú cổ, nhân vật khách không mấy xa lạ. Ngọc tỉnh liên phú (bài phú Sen giếng ngọc) của Mạc Đĩnh Chi (? – 1346) cũng có nhân vật khách:
    ... Khách có kẻ:

    Nơi nhà cao tựa ghế,
    Trưa mùa hạ nắng nồng;
    Ao trong ngắm làn nước biếc,
    Nhạc phủ vịnh khúc Phù Dung...
    Khách ở đây là Mạc Đĩnh Chi biểu lộ tâm lòng thanh cao, chí khí, tài năng và hoài bão của kẻ sĩ ở đời.
    Ta đã từng biết, Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Chín câu đầu, cho thấy khách là một tao nhân với bầu rượu túi thơ chơi vơi theo cách buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi niềm sông biển. Sống hết mình với thiên nhiên, du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa, gần. Đêm thì chơi trăng mải miết, ngày thì sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
    Khách đã đi nhiều và biết nhiều. Các danh lam thắng cảnh như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt... đều ở trên đất nước Trung Hoa mênh mông; ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng nói lên cá tính, một tâm hồn: yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn làm niềm lạc thú ở đời, tự hào về thối giang hồ của minh:

    Nơi có người đi
    Đâu mà chẳng biết.
    Các địa danh xa lạ ấy, không chỉ là cảnh đẹp mà còn gợi ra một không gian bao la, chỉ có những người mang hoài bão và tráng chí bốn phương mới có thể giương buồm... lướt bể đi tới. Đầm Vân Mộng là một thắng cảnh tiêu biểu cho mọi thắng cảnh. Thế mà khách đã chứa vài trăm trong dạ, đã thăm thú nhiều lần, đã từng thưởng ngoạn bao cảnh đẹp tương tự. vẫn chưa thoả lòng, vẫn còn tha thiết với bốn phương trời. Một lối nói khoa trương và ẩn dụ tạo nên câu văn đẹp thể hiện một tâm hồn đẹp:

    Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn thiết tha thiết.
    Phần đầu bài phú nói lên cốt cách kẻ sĩ: chan hoà với thiên nhiên, lấy chữ nhàn làm trọng, gián tiếp phủ định danh lợi tầm thường.

    2. Qua cửa Đại Than... đến sông Bạch Đằng...
    Đoạn văn tiếp theo nói lên niềm vui của nhà thơ khi đến sông Bạch Đằng. Trương Hán Siêu đã theo cái chí của người xưa học Tử Trường đi về phía Đông Bắc buông chèo cho thoả chí tiêu diêu. Người xưa nói: Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường. Tử Trường là Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử kí bất hủ, nhà văn, nhà sử học tài ba đời Hán. Con người ấy vẫn được xem như là du lịch có một không hai thời xưa. Trương Hán Siêu với cánh buồm thơ lần theo sông núi:

    Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
    Đến sông Bạch Đằng, bồng bềnh mái chèo.
    3. Bát ngát sóng kình muôn dặm
    Bạch Đằng giang phú – con sông oai hùng của Tổ quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc. Cuối thu (ba thu) nước trời một màu xanh bao la: Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi chỉ một màu. Nước trời: một sắc – Phong cảnh ba thu. Câu vẫn tả thực, mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài Đằng Vương các: “Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu). Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288 – 1356) viết: “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc... Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối. Lầm tưởng rằng máu người chết trận vẫn chưa khô” (Bạch Đàng giang – dịch nghĩa). Cảnh núi non, bờ bãi được miêu tả, tái hiện cảnh chiến trường rùng rợn một thời:

    Bờ lau san sát
    Bến lách đìu hiu
    Sông chim giáo gãy
    Gò đầy xương khô.
    Bờ lau, bến lách gợi tả không khí hoang vu, hiu hắt. Núi gò, bờ bãi trập trùng như gươm giáo, xường cốt lũ giặc phương Bắc chất đống. Nét vẽ hoành tráng ấy, một thế kỉ sau, Ức Trai cũng viết:

    Ngạc chặt kình băm non lởm chởm
    Giáo chìm gươm gãy bãi giăng giăng
    (Cửa biển Bạch Đằng).
    Trương Hán Siêu miêu tả dòng sông Bạch Đằng bằng những nét, màu sắc gợi cảm. Những ẩn dụ và liên tưởng nói về dòng sông lịch sử được diễn tả qua những cặp câu song quan và tứ tự tuyệt đẹp. Mấy chục năm sau trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (1288), tác giả đến thăm dòng sông cảm thương xúc động:

    Buồn vì cảnh thảm
    Đứng lặng giờ lâu
    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
    Một tâm trạng: buồn, thương, tiếc, một cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương vá biết ơn sâu sắc, vô hạn đối với các anh hùng liệt sĩ đã đem xương máu bảo vệ dòng sông và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung uống nước nhớ nguồn.

    4. Mà nhục quân thù không rửa nỗi
    Các bô lão – nhân vật mới xuất hiện trong bài phú. Từ miêu tả nhà thơ chuyển sang tự sự; ngôn ngữ sống động biến hoá hẳn lên. Cảm hứng lịch sử mang âm hưởng anh hùng ca. Khách và bô lão ngắm dòng sông, con sóng nhấp nhô như sống lại những năm tháng hào hùng của tổ tiên.
    Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thắng bắt Ô Mã,
    Cũng là bãi đất xưa thửa trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.
    Sau và trước, gần và xa, ta và giặc, người chiến thắng và kẻ thảm bại được đặt trong thế tương phản đối lập đã khắc sâu và tô đậm niềm tự hào sông núi. Đằng giang tự cổ huyết do hồng vì nó là mồ chôn lũ xâm lược phương Bắc.
    Năm 938, Ngô Quyền dùng kì mưu đại phá quân Nam Hán:

    Bạch Đằng một trận giao phong,
    Hoằng Thao lạc vía, Kiều công nộp đầu.
    Năm 1288, Trần Quốc Tuấn mở một trận quyết chiến – chiến lược bắt sống Ô Mã Nhi và tiêu diệt hàng vạn giặc Nguyên – Mông:

    Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
    Xương bay trắng đất, máu màng đỏ sông.
    (Đại Nam quốc sử diễn ca)
    Trở lại bài phú: Đương khi ấy... đó là ngày 9 tháng 4 năm 1288, trận thuỷ chiến đã diễn ra ác liệt trên sông Bạch Đằng. Dòng sông nổi sóng với muôn đội thuyền bè. Cảnh tượng chiến trường vô cùng tráng liệt:

    Tinh kì phấp phới
    Tỳ hổ ba quân
    Giáo gươm sáng chói.
    Các dũng sĩ nhà Trần với quyết tâm Sát Thát, với dũng khí mạnh như hổ báo xung trận. Chiến sự dữ dội ác liệt, giằng co:

    Trận đánh thư hùng chửa phân
    Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
    Khói lửa mù trời. Tiếng gươm giáo, tiếng quân reo, tiếng sóng vỗ. Ngựa hí voi gầm, thuyền chiến giặc bị đốt cháy, bị va vào cọc gỗ bị sắt nhọn vỡ, đắm tan tành. Máu giặc nhuộm đỏ dòng sông. Trận đánh kinh thiên động địa được tái hiện bằng những nét vẽ, những chi tiết phóng bút, khoa trương rất thần tình. Âm thanh và màu sắc, trực cảm và tưởng tượng được tác giả phối hợp vận dụng, góp phần tô đậm trang sử vàng chói lọi:

    Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
    Bầu trời đất chừ sắp đồi.
    Đại Việt sử kí ghi rõ: Các tướng giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... đều bị bắt sống, hàng vạn giặc bị tiêu diệt. Quân ta thu được hơn 400 chiến thuyền. Giặc đã lần lượt nếm mùi thất bại, nhục nhã. Dòng sông Bạch Đằng như một chứng nhân lịch sử.

    Đến nay sông nước tuy chảy hoài
    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.
    Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng của tổ tiên mang tầm vóc và qui mô hoành tráng, kì vĩ. Cũng như trận Xích Bích, trận Hợp Phì quân Tào Tháo tan tác tro bay... quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi, trận Bạch Đằng giang đã đập tan âm mưu bàng trước xâm lược của Lưu Cung, của Tất Liệt:

    Trời cũng chiều người
    Hung đồ hết lối.
    Hung đồ là một cách nói khinh bỉ đối với lũ giặc phương Bắc.

    5. Đất hiểm và nhân tài
    Nhà thơ từ miêu tả, tự sự đến suy ngẫm về vinh phục, về thắng, bại trong lịch sử. Tổ quốc mãi mãi vững bền là nhờ có 2 nhân tố quan trọng: đất hiểm và nhân tài. Tính tư tưởng cả áng văn này rất sâu sắc. Tác giả đã nêu lên bài học lịch sử vô giá:

    Quả là: trời đất cho nơi hiểm trở
    Cũng nhờ: nhân tài giữ cuộc điện an.
    Bạch Đằng, Chi Lăng... là đất hiểm trở. Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung... là nhân tài. Cuộc điện an là sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, hoà bình, yên vui cho đất nước.
    Bằng lối so sánh, nhắc lại vai trò to lớn của lã Vọng, Hàn Tín bên Trung Quốc để lại võ công lừng lẫy một thời, tác giả ngợi ca Hưng đạo Vương người anh hùng vĩ đại thuở bình Nguyên oanh liệt:

    Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
    Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn.
    Thế giặc nhàn là thế giặc dễ đánh thắng. Quả đúng như vậy, lần thứ 3 giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đã bị đại bại. Con người anh hùng coi thế giặc nhàn, tên tuổi sống mãi với Bạch Đằng giang, với đất nước Đại Việt:

    Tiếng thơm đồn mãi
    Bia miệng không mòn.
    Đoạn văn miêu tả dòng sông, đoạn kể lại trận thuỷ chiến là đặc sắc nhất. Màu sắc tráng lệ. Hình ảnh kì vĩ. Phép đối được vận dụng rất tài tình để biểu lộ niềm tự hào dân tộc và sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam. Trương Hán Siêu đã bày tỏ một quan niệm về đất hiểm và nhân tài, về cái vinh và cái nhục, cái tiêu vong và cái vĩnh hằng... trong cuộc đời và trong lịch sử. Tư tưởng cao đẹp ấy được diễn tả một cách tráng lệ nên thơ, tạo nên vẻ đẹp văn chương của Bạch Đằng giang phú.

    6. Cốt mình đức cao
    Phần cuối bài phú là bài ca của các bô lão và khách về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng giang hùng vĩ một dải dài ghê, là mồ chôn lũ xâm lăng: “Sóng hồng cuồn cuộn trôi về bể Đông”. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời lưu danh sử sách.
    Tác giả dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất:

    Anh minh hai vị thánh quân,
    Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
    Thánh quân là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được đại an; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh mình mà Đại Việt được thanh bình muôn thuở. Một lần nữa, tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước. “Bởi đâu đất hiếm, cốt mình đức cao”. Đức cao là lòng yêu thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm hoạ ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn thời Trần là ngời hào khí Đông A còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước:

    Thái bình nên gắng sức
    Non nước ấy ngàn thu
    (Trần Quang Khải)
    Đức cao là nguyên nhân thắng lợi như Trần Quốc Tuấn đã nói: Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức. Đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.
    Tóm lại, Bạch Đằng giang phú là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sâu lắng và giọng điệu anh hùng ca, không khí trang trọng, cổ kính, tài cao trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận... là những thành công của Trương Hán Siêu. Đẹp vậy thay tiếng hát lòng:

    Sông Đằng một dải dài ghê.
    Sóng hồng cuồn cuộn trôi về bể Đông.​
     
  3. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Cảm nhận về tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu - Bài làm 2

    Bài làm:

    Nội dung

    Khách[1] có kẻ:
    Giương buồm giong gió chơi vơi,
    Lướt bể chơi trăng mải miết.
    Sớm gõ thuyền chừ[2] Nguyên, Tương[3],
    Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
    Cửu Giang, Ngũ Hồ[4], Tam Ngô, Bách Việt[5],
    Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
    Đầm Vân Mộng[6] chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
    Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
    Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
    Học Tử Trường[7] chừ thú tiêu dao[8].
    Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều[9],
    Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
    Bát ngát sóng kình[10] muôn dặm,
    Thướt tha đuôi trĩ[11] một màu.
    Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu[12],
    Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
    Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
    Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
    Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá[13].
    Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
    Bên sông các bô lão, hỏi ý ta sở cầu[14]?
    Có kẻ gậy lê[15] chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,
    Vái ta mà thưa rằng:
    Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh[16] bắt Ô Mã[17],
    Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa[18] phá Hoằng Thao[19].
    Đương khi ấy:

    Thuyền bè muôn đội, tinh kì[20] phấp phới,
    Hùng hổ sáu quân[21], giáo gươm sáng chói.
    Trận đánh được thua chửa phân,
    Chiến luỹ bắc nam chống đối.
    Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
    Bầu trời đất chừ sắp đổi.
    Kìa: Tất Liệt[22] thế cường, Lưu Cung[23] chước dối,
    Những tưởng gieo roi[24] một lần,
    Quét sạch Nam bang bốn cõi!
    Thế những: Trời cũng chiều người,
    Hung đồ hết lối!
    Khác nào khi xưa:

    Trận Xích Bích[25] quân Tào Tháo tan tác tro bay,
    Trận Hợp Phì[26] giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
    Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
    Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!
    Tái tạo công lao[27], nghìn xưa ca ngợi.
    Tuy nhiên: Từ cõ vũ trụ, đã có giang san.
    Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an[28].
    Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã[29],
    Trận nào bằng trận Duy Thuỷ[30]: như quốc sĩ họ Hàn.
    Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
    Bởi đại vương coi thế giặc nhàn[31].
    Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
    Đến bên sông chừ hổ mặt,
    Nhớ người xưa chừ lệ chan.[32]
    Rồi vừa đi vừa ca rằng:
    Sông Đằng một dải dài ghê,
    Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
    Những người bất nghĩa tiêu vong,
    Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
    Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
    “Anh minh hai vị thánh quân[33],
    Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh[34].
    Giặc tan muôn thuở thăng bình.
    Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao[35].”
    [1] Khách: phú cổ thể thường dùng lối “chủ-khách đối đáp”, có nhân vật “khách” kể chuyện cho hấp dẫn. Ở đây có thể là tác giả tự xưng.
    [2] Chừ: dịch chữ “hề” trong nguyên tác. Chữ “hề” là một từ đệm có trong Sở từ của Trung Quốc, nhiều bài phú thường dùng xen vào.
    [3] Nguyên, Tương, Vũ Huyệt: sông Nguyên, sông Tương ở tỉnh Hồ Nam, Vũ Huyệt ở núi Cối Kê, tỉnh Chiết Giang, đều là phong cảnh đẹp của Trung Quốc.
    [4] Cửu Giang: tên sông, sở dĩ gọi là Cửu Giang vì con sông đó do chín con sông nhỏ hợp thành. Ngũ Hồ: có hai nghĩa: Ngũ Hồ là biệt danh của Thái Hồ. Ngũ Hồ là năm hồ (hai khu vực năm hồ, một lấy hồ Động Đình làm trung tâm, một lấy Thái Hồ làm trung tâm).
    [5] Tam Ngô: tên một vùng đất cũ của nước Ngô bao gồm ba địa phương. Bách Việt: tên chung chỉ các bộ tộc người Việt cổ sống ở phía nam sông Trường Giang (Trung Quốc).
    [6] Vân Mộng: vùng đầm nước rộng lớn của Trung Quốc.
    [7] Tử Trường: tên chữ của Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng của Trung Quốc thời Hán, người đã từng du lịch nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử.
    [8] Tiêu dao: thảnh thơi đi đây đi đó, không chút bận tâm.
    [9] Đại Than, Đông Triều: tên cửa biển, tên huyện vùng sông Bạch Đằng, Quảng Ninh hiện nay.
    [10] Sóng kình: (kình: cá voi) sóng lớn.
    [11] Đuôi trĩ: đuôi chim trĩ có hình dài như bánh lái thuyền. Ý tả những con thuyền nối đuôi nhau đi trên sông.
    [12] Ba thu: có ba cách hiểu: ba mùa thu (ba năm), ba tháng của mùa thu, tháng thứ ba của mua thu; ở đây theo nghĩa thứ ba.
    [13] Tá: từ vừa có nghĩa nghi vẫn, vừa có nghĩa cảm thán, nay ít dùng.
    [14] Sở cầu: điều muốn có, muốn tìm.
    [15] Gậy lê: gậy làm bằng gỗ cây lê.
    [16] Trùng Hưng nhị thánh: Trùng Hưng: một trong hai niên hiệu của Trần Nhân Tông từ năm 1285 đến 1293, nhị thánh: Trần Thánh Tông (thái thượng hoàng) và Trần Nhân Tông (vua).
    [17] Ô Mã: tức Ô Mã Nhi, tướng giặc Nguyên bị bắt sống ở trận Bạch Đằng năm 1288.
    [18] Ngô chúa: Ngô Quyền.
    [19] Hoằng Thao (có cách đọc khác là Hoằng Tháo): con Lưu Cung, vua Nam Hán. Hoằng Thao bị giết ở sông Bạch Đằng năm 938.
    [20] Tinh kì: cờ.
    [21] Sáu quân: theo cách tổ chức quân đội xưa ở Trung Quốc. Ở đây ý nói quân đội hùng mạnh.
    [22] Tất Liệt: tức Hốt Tất Liệt.
    [23] Lưu Cung: vua Nam Hán.
    [24] Gieo roi: Bồ Kiên nước Tần khi vào đánh nước Tấn có nói: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác gải mượn ý này để nói quân Nguyên vào đánh nước ta cũng ỷ thế quân đông tướng mạnh.
    [25] Xích Bích: dãy núi bên bờ sông Dương Tử. Thời Tam quốc, Chu Du dùng kế hoả công của Gia Cát Lượng đốt thuyền đánh tan 82 vạn quân Tào Tháo trên quãng sông này.
    [26] Hợp Phì: tên một huyện thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc, nơi sông Hoài hợp với sông Phì. Tạ Huyền đã đánh tan 100 vạn quân Bồ Kiên ở đây.
    [27] Tái tạo công lao: ý ca ngợi các vua Trần đã một lần nữa lập nên chiến công trên sông Bạch Đằng.
    [28] Điện an: hoà bình, an ninh vững bền.
    [29] Ở đây tác giả ví việc Trần Quốc Tuấn hội quân tại bến Bình Than như việc Lã Vọng giúp Vũ Vương hội quân ở bến Mạnh Tân.
    [30] Duy Thuỷ: một con sông ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, nơi Hàn Tín - một tướng giỏi của Hán Cao Tổ - dùng mẹo tháo nước đánh thắng quân tề. Hai câu này ý nói trong trận giao tranh với giặc Mông – Nguyên, ta có các tướng vừa giỏi chiến trận vừa mưu lược.
    [31] Thế giặc nhàn: thế giặc dễ phá. Đại vương: chỉ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Sau hai lần thất bại, năm 1287, giặc Mông – Nguyên lại sang xâm lược nước ta, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn: “Giặc đến làm thế nào?” Ông tâu: “Năm nay thế giặc nhàn”.
    [32] Hai câu này trong nguyên văn là: “Hoài cổ nhân hề vẫn thế - Lâm giang lưu hề hậu nhan”, cần tránh hiểu lầm là lời nhân vật khách tự nói mà vẫn là lời các bô lão nói với khách.
    [33] Hai vị thánh quân: tức Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông.
    [34] Giáp binh: áo giáp và binh khí.
    [35] Đức cao: dịch ý câu “ý đức mạc kinh”, sách Tả truyện có câu “mạc chi dữ kinh”, nghĩa là không gì lớn bằng.
    Bạch Đằng là một nhánh sông đổ ra biển thuộc Quảng Ninh, phía gần Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, nơi ghi dấu nhiều chiến công trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Đáng nhớ nhất là các trận thuỷ chiến: năm 938, Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán, giết Lưu Hoằng Thao; năm 1288, Trần Quốc Tuấn đánh tan quân Mông – Nguyên, bắt sống Ô Mã Nhi. Nhiều tác giả đã viết về đề tài sông Bạch Đằng như: Trần Minh Tông (Bạch Đằng giang), Nguyễn Sưởng (Bạch Đằng giang), Nguyễn Trãi (Bạch Đằng hải khẩu), Nguyễn Mộng Tuân (Hậu Bạch Đằng giang phú),…. Trong đó nổi tiếng nhất là Trương Hán Siêu với Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng). Chưa rõ bài phú được viết năm nào, có lẽ vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giăch Mông – Nguyên thắng lợi.
    Phú sông Bạch Đằng mang những đặc trưng cơ bản của thể phú. Phú là một thể văn có vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi, dùng để tả cảnh vật, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời,… Một bài phú thường gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết. Bố cục bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu cũng giống bố cục của bài phú nói chung. Nó được làm theo lối phú cổ thể (loại phú có trước thời Đường, có vần, không nhất thiết phải có đối, cuối bài thường được kết lại bằng thơ). Bản dịch ở đây nói chung theo nguyên điệu, chỉ hai bài ca cuối được chuyển sang thể lục bát.