Chứng minh tình yêu quê hương đất nước của các tác giả trong ba bài thơ “Bên kia sông Đuống”

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Chứng minh tình yêu quê hương đất nước của các tác giả trong ba bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm), “Việt Bắc” (Tố Hữu) và “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi)

    Bài làm:
    Văn hào Êrenbua có nói: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tâm thường nhất, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua chát của trái lê mùa thu, hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương. Người vùng Bắc nghĩ đến những cánh rừng bên dòng sông Vina hay miền Xucônô thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng cô nàng gọi đùa người yêu. Người xứ Ưcơren nhớ bóng thuỳ dương tư lự bên đường...
    Cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của dân tộc ta cũng đã khiến cho mỗi người Việt Nam càng thêm yêu thêm quý quê hương đất nước mình. Những công dân nhạy cảm nhất đã phản ánh tình yêu quê hương đất nước của nhân dân ta trong những bài thơ. Tiêu biểu cho những bài thơ đó là Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Việt Bắc của Tố Hữu.
    Nhà thơ Hoàng cầm đi kháng chiến chống Pháp giữa núi rừng Việt Bắc, nhà thơ nhớ về quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống đang còn trong bóng tối của giặc Pháp xâm lược:

    Sông Đuống trôi đi
    Một dòng lấp lánh
    Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
    Xanh xanh bãi mía bờ dâu
    Ngô khoai biêng biếc
    Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
    Sao xót xa như rụng bàn tay.
    Nỗi nhớ thật tha thiết! Hình ảnh quê hương hiện lên trong thơ thật đẹp! Những cảm nhận riêng của thi sĩ gây ấn tượng sâu đậm cho người dọc. Cái dáng “nghiêng nghiêng” của dòng sông Đuống là của Hoàng Cầm. Nỗi “nhớ tiếc”, “xót xa” trở thành nỗi đau của thân xác (rụng bàn tay) cảm động xiết bao! Bằng những cảm giác tinh tế, hình ảnh của quê hương trù phú, có truyền thống văn hoá hiện lên sinh động:

    Bên kia sông Đuống
    Quê hương ta lúa nếp tham nồng
    Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
    Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
    Nhưng rồi giặc Pháp tàn bạo đã chà đạp lên quê hương thân yêu của nhà thơ:

    Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
    Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn.
    Những giá trị văn hoá cổ truyền bị phá hoại. Còn đâu cuộc sống yên vui, còn dâu những cô nàng “môi cắn chỉ quết trầu”, còn đâu những cô hàng xén rằng đen “cười như mùa thu toả nắng”, thật đau xót khi:

    Mẹ con đàn lợn âm dương
    Chia lìa đôi ngả
    Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
    Bây giờ tan tác về đâu?
    Đúng như Êrenbua nói: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất...” Một dòng sông Đuống lấp lánh, những bức tranh làng Hồ, những thiếu nữ quan họ... đã nói lên tình yêu quê hương tha thiết của thi sĩ và gợi đến tình yêu quê hương sâu thẳm của mỗi tâm hổn Việt Nam.
    Nguyễn Đình Thi lại cảm hứng về đất nước có tính chất tổng hợp. Tất nhiên đất nước rồi cũng được gợi lên bằng những hình ảnh, chi tiết cụ thể. Trường hợp này giống Trần Mai Ninh viết Tỉnh sông núi khởi đầu bằng “Trăng nghiêng trên sông Trà Khúc...”. Nguyễn Đình Thi gợi lên hình ảnh của đất nước bằng niềm vui trước mùa thu kháng chiến với những sắc màu, âm thanh rộn rã:

    Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
    Gió thổi rừng tre phấp phới
    Trời thu thay áo mới
    Trong biếc nói cười thiết tha.
    Giữa thời điểm nghiêm trọng của lịch sử, nhà thơ khẳng định tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc, và bộc lộ niềm tự hào về đất nước:

    Trời xanh đây là của chúng ta
    Núi rừng đây là của chủng ta
    Những cánh đồng thơm mát
    Những ngả đường bát ngát
    Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
    Nếu Hoàng Cầm nồng nàn với những kỉ niệm thì Nguyễn Đình Thi suy tư và triết lí về đất nước, về không gian, về thời gian. Hoàng Cầm gợi lên hình ảnh con người của quê hương còn Nguyễn Đình Thi gợi lên con người của lịch sử, cụ thể và khái quát, trừu tượng đều có sức mạnh:

    Nước chúng ta,
    Nước những người chưa bao giờ khuất
    Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về.
    Đoạn kết bài thơ Đất nước là cảm hứng anh hùng ca. Tác giả ngợi ca sức mạnh bão táp của một dân tộc vùng lên giành tự do độc lập. Chiến thắng Điện Biên Phủ như là một biểu tượng sức mạnh của dân tộc anh hùng và cùng là biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu Tổ quốc:

    Súng nổ rung trời giận dữ
    Người lên như nước vỡ bờ
    Nước Việt Nam, từ máu lửa
    Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
    Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là bản anh hùng ca kháng chiến. Trong bản đại hợp xướng ấy có một dòng trữ tình ngọt ngào, thắm thiết diễn tả tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và mới mẻ. Đó là tình yêu “quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà”:

    Mình về mình có nhớ ta
    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
    Mình về mình có nhớ không
    Nhìn cây nhở núi, nhìn sông nhớ nguồn?
    Lời Việt Bắc gợi đến tình nghĩa sâu sắc từ những ngày gian khổ, chia ngọt sẻ bùi:

    Mình về, có nhớ chiến khu
    Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng cai?
    Mình về, rừng núi nhớ ai
    Trám bùi để rụng, măng mai để già.
    Mình đi, có nhớ những nhà
    Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
    Đáp lại lời Việt Bắc, người cán bộ kháng chiến cũng gợi lại những ân tình:

    Nhớ gì như nhớ người yêu
    Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.
    Người về nhớ cảnh và người Việt Bắc, nhớ lại những kỉ niệm của những ngày kháng chiến gian nan “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Và hình ảnh sâu đậm nhất đối với người cán bộ cách mạng là hình ảnh người mẹ Việt Bắc:

    Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
    Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
    Thiên nhiên Việt Bắc bốn mùa xanh tươi rực rỡ cũng được người về gợi lên đầy sức quyến rũ:

    Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
    Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
    Ngày xuẩn mơ nở trắng rừng
    Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
    Ve kêu rừng phách đổ vàng
    Nhớ cô em gái hái măng một mình
    Rừng thu trăng rọi hoà bình
    Nhớ ai tiếng hát ân tỉnh thuỷ chung.
    Từ âm điệu trữ tình ngọt ngào thắm thiết, nhiều đoạn vang lên âm hưởng anh hùng ca. Tác giả tự hào về những chiến thắng oai hùng của dân tộc như Phủ Thông, Đèo Giàng, Sông Lô, Tây Bắc, Điện Biên Phủ. Ngợi ca những chiến thắng vẻ vang của dân tộc cũng chính là nhà thơ thể hiện ở đỉnh cao tinh thần yêu quê hương đất nước:

    Những đường Việt Bắc của ta
    Đêm đêm rầm rập như là đất nung
    Quân đi điệp điệp trùng trùng
    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
    Mượn màu sắc của tình yêu, bằng hình thức hát đối đáp dân tộc, nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả sâu sắc và phong phú tình yêu quê hương đất nước và niềm tự hào về đất nước trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại.
    Cuộc kháng chiến chống Pháp đã khiến cho mỗi người Việt Nam thêm yêu thương gắn bó với quê hương đất nước thân yêu của mình. Các nhà thơ đã khéo léo trưng bày những của quý cất giấu kín đáo trong rương trong hòm đó của nhân dân. Mỗi bài mỗi vẻ, ba bài thơ: Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Việt Bắc của Tố Hữu đã diễn tả sâu sắc tình yêu quê hương đất nước của nhân dân ta. Cùng ca ngợi một dòng tình cảm lớn và cao quý của dân tộc nhưng mỗi bài thơ có nét riêng độc đáo. Bài thơ Bên kia sông Đuống diễn tả tình yêu cụ thể về một miền quê trù phú và một mảnh đất văn hoá lâu đời. Bài thơ Đất nước diễn tả khái quát và triết lí về tình yêu đất nước. Bài thơ Việt Bắc diễn tả tình cảm mới mẻ, tình yêu quê hương cách mạng. “Dòng suối đổ vào sông, con sông Volga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yèu miền quê trở nên tình yêu Tổ quốc” (Êrenbua). Mỗi bài thơ của Hoàng Cầm, cua Nguyễn Đình Thi, của Tố Hữu như những dòng suối trong trẻo mát lành đã đổ vào dòng sông của tình yêu quê hương và góp phần làm nên biền lớn của tình yêu Tổ quốc.