Cơ Sở Văn Hóa VN - Chương 3 - Bài 2: Văn hóa Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên

  1. Tác giả: LTTK CTV
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Tóm tắt lý thuyết

    1. Bối cảnh văn hóa lịch sử

    • Vào những thế kỉ cuối của thiên niên kỉ trước công nguyên, nền văn hóa Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách ghê gớm. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hẩu như vừa mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 trước công nguyên, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên ‘Ngung (Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận: Giao Chi và Cửu Chân. Năm 111 trước công nguyên, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc, thành châu Giao Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là thứ sử, đầu quận là thái thú. Thời kì này kéo dài từ năm 179 trước công nguyên (tuy vậy nó được bắt đấu thực sự sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng, năm 43 sau công nguyên) tới năm 938 với chiến thắng cúa Ngô Quyền mở đầu cho kỉ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kì này thường đưực gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục. Tổ tiên ta đã "mất nước".
    • Bây giờ không còn một nước Việt cổ đại, và nếu nói theo F.Ăngghen thì bấy giờ dân Việt cổ "không còn có một hành động độc lập trong lịch sử". Trong diễn trình lịch sử văn hóa bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa mạnh mẽ, giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc, đã tiến hành đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa.
    • Nếu như quốc gia, dân tộc và văn hóa Âu Lạc trước đó chưa hình thành hoặc chưa đạt tới trình độ phát triển cao, chưa định vị được những bản sắc vững chắc của riêng mình thì chắc chắn với những chính sách cưỡng chế đồng hóa trong suốt hơn 10 thế kỉ, nhà nước Việt, dân tộc Việt, văn hóa Việt đã trở thành một phần lành thổ, một bộ phận cư dân, một tiểu khu văn hóa của Trung Hoa đại lục. Song điều đó đã không thể xảy ra, trong thời kì này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, bảo vệ dân tộc mình, chống lại chỉnh sách đồng hóa, đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.
    Như vậy có ba đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hóa - lịch sử giai đoạn này:
    • Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Hán.
    • Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn.
    • Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sác dân tộc, bản sắc văn hóa bằng cách bảo tồn những giá trị truyền thống đã được định hình và phát triển trong giai đọan văn hóa Đồng Sơn và bằng cách thâu hóa yếu tố văn hóa mới, để chống lại xu hướng đồng hóa văn hóa của vương triều Hán
    2. Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Hán
    • Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người Việt, giai cấp thống trị Hán đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện.
    • Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, kẻ thống trị Hán có ý thức di thực mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt với mục đích thiết lập trên đất này một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, một phương thức canh tác và một phong tục tập quân giống như Trưng Hoa. Đó là các chính sách bắt dân bản xứ học tập như người Hán, ăn mặc, tổ chức xã hội, làm ruộng giống người Hán. Ngoài ra còn có những cuộc di cư ồ ạt từ phương Bắc xuống sống lẫn với người Việt, để đồng hóa người Việt (trên thực tế lại xảy ra hiện tượng Việt, hóa những nhóm cư dân Hán - thưởng được gọi là dân Mã Lưu (dân do Mâ Viện lưu lại).
    • Ở lĩnh vực tư tưởng là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập đạo Nho, đạo Lào - Trang,.., vào Việt Nam.
    • Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Hán còn để lại dấu ấn trong những lĩnh vực khác như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, tiếng nói ...
    • Nhưng Hán hóa với mục tiêu là đồng hóa thì bọn xâm lược phương Bắc không thành công. Không vì Hán hơn mà người Việt biến thành người Hán, xã hội Việt biến thành xã hội Hán, thực thế Việt vẫn khác. Điều đó là do trong suốt thời gian này bên cạnh hướng Hán hóa đã có một chiều hướng khác luôn hạn chế và làm biến chất cái áp đặt từ bên ngoài. Đó là chiều hướng chống Hán hóa, để giữ gìn bản sác của dân tộc.
    • Vì thế từ đầu công nguyên trở đi, nền văn minh Đông Sơn mà sợi dây liên kết nhà nước Âu Lạc với thiết chế xã hội là chế độ Lạc tướng đã bị giải thể cấu trúc. Những "mảnh vụn" của nên văn minh này cùng với cái "thán thái Đông Sơn" của nó tuy không bị mất đi nhưng, một mặt đã hòa tan vào nên văn hóa dân gian của các làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác của miền Đông Dương và Đông Nam Á và mặt khác đã và sẽ gá lắp với những thể chế văn mình ngoại sinh tới từ phía Trung Hoa, Ấn Độ..., để dần dần tạo nền một sác thái văn hóa văn minh mới.
    3. Giao lưu vẫn hóa tự nhiên Việt - Ấn
    • Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng trong khu vực. Qua giao lưu văn hóa có thể nói rằng, người Việt cổ đã đóng góp xứng đáng cho văn hóa Đông Nam Á. Trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên này bên cạnh giao lưu với văn hóa Hán, luồng ánh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc - rối từ. Trung Quốc truyền đội sang đất nước ta - từ rất sớm, đại để vào một hai thế kỉ đâu công nguyên.
    • Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, trên đường phát triển, Phật giáo đã chia thành nhiều tông phái khác nhau với hai dòng chính là Tiểu thừa (Nam tông) và Đại thừa (Bắc tông). Phật giáo vào nước ta thì nó đã biến dạng khá nhiều, bởi đạo Bàlamôn, bởi những thêm bớt trên đường truyền bá từ Ấn Độ sang các nước láng giềng, sang Trung Quốc và từ Trung Quốc sang đất Việt. Khi vào đất Việt, Phật giáo cũng phải biến hóa cho phù hợp với phong tục tập quán của cư dân bản địa.
    • Có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỉ đầu của công nguyên.
    • Phật giáo được truyền vào Bành Thành bằng đường biển. Nếu đã đo đường biển thi đạo Phật chắc chắn đã đi qua Giao Châu trước bởi vì Giao Châu là điểm giao tiếp quan trọng và chủ chốt giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài.
    • Trung tâm Phật giáo Luy Lâu có thể thành lặp sớm hơn các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương.
    • Trung tâm Luy Lâu có thể là một căn cứ và bàn đạp cho Phật giáo đi sâu vào miền nội địa Trung Quốc. Sư Đàm Thiên có lí khi cho rằng Giao Châu theo đạo Phật trước miền Giang Đông của Trung Quốc.
    • Giao Châu ở sát ngay các nước chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ và sử dụng Phạn ngữ, lại gần gũi với văn minh Trung Hoa và ở đây đã dùng chủ Hán. Giao Châu thuận lợi cả vẽ mật địa lí và ngôn ngữ văn tự cho sự truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa. Như phân trên đà nói, hàng năm đều có thuyền chở cống phẩm từ Giao Châu lên miền hạ lưu Trường Giang rồi từ đó cống phẩm mới được vận chuyển tiếp về Lạc Dương. Chắc rằng các tăng sĩ Ấn Độ đã dừng nghỉ một thời gian ở Luy Lâu, học tiếng và chử Hán tìm hiểu tình hình chính trị, văn hóa Trung Hoa rồi mãi theo thuyền buôn và thuyền chở cống phẩm đi tiếp lên miền Bẳc.
    • Vậy trung tâm Luy Lâu có thể được hình thành do sự viếng thăm của những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà tới bằng đường biển và đường sông.
    • Đạo Phật tại Giao Châu chắc chẳn do từ Ấn Độ truyền sang trưc tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống.
    • Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu phải ở lại đây cho đến năm tối, chờ gió mùa đông bắc để trở về Ấn Độ. Một số tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luy Lâu. Họ sống với người Việt và Hoa kiều và đã ảnh hưởng tới những người này bằng tiếng nói, lối sống và đạo Phật. Người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có đạo Phật.
    • Theo sử sách Trung Quốc, bấy giờ Giao Châu, ngoài các chùa thờ Phật, còn nhiều đến thờ khác của tín ngưỡng dân gian Việt Nam bị gán chung là "dâm từ”. Điều đó chứng tỏ tín ngưỡng cổ truyền của người Việt vẫn đậm đà trên đất Giao Châu.
    4. Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
    • Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng vân hóa bản địa, nội sinh tích lũy được quá hàng nghìn năm trước. Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẳng đó, nhân dân ta phải sống cảnh "chim lồng cá chậu" trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội bao giờ cũng là xã hội của nhân dân, nhân dân vẫn, trong một môi trường sinh thái cụ thể và quen thuộc, không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn hóa. Bất cứ lực lượng xã hội não, bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn cản được sự phát triển kinh tế, văn hóa tự mở lấy đường đi.
    • Nét hàng xuyên của vân hóa Việt Nam là sự "không chối từ" việc tiếp thu, tiêu hóa và làm chủ những ảnh hưởng văn hóa của nước ngoài. Qua con đường giao lưu văn hóa, trào lưu di cư của một phân số sĩ phu và bần dân Hán tộc xuống Giao Chỉ, trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử) nằm trong phạm vi của đế chế ấy, nhân dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc về văn hóa vật chất cũng như về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần.
    • Trên cơ sở một vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố văn hóa Đông Nam Á, Ấn Độ (Nam Á), Trung Á và Tây Á... có tác dụng trung hòa những ảnh hưởng to lớn của Trung Hoa khiến cho văn hóa Việt cổ thời Bắc thuộc vần mang tính chất độc đáo, đặc thù, khác và vẫn có thể phân biệt được với văn hóa Trung Hoa và vẫn dáng duyên, mềm mại hơn trong sác thái hòa đồng văn hóa. Nhân dân ta đã biết biến những của cải đi vay thành tài sản của dân tộc đặng bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc.
    • Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hóa vạt chất chẳng hạn, từ chỗ tiếp thu được kỉ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tòi, khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trẩm, rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng, có phần hơn giấy sản xuất ở miễn nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung Quốc chì có chảo), ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại "iang" của đống bào Mơnông gần đây.
    • Chủ thể mang truyền thống văn hóa ngàn xưa và sáng tạo nền văn hóa mới trong khỉ không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hóa ngoại sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hóa, trước tiên là sự đấu tranh thường xuyên chống âm mưu đồng hóa của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt.
    • Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hóa Việt đặng chống đồng hóa là sự bảo tồn tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc.
    • Tiếng nói là một thành tựu văn hóa, là một thành phán của văn hóa. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ờ miền Đông Nam Á và điều đó chứng tỏ cái gốc tích lâu đời, bàn địa của dân tộc ta trên dải đất này.
    • Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ, tiếng Hán “ và chữ Hán - được đu nhập ồ ạt vào nước ta.
    • Song nó không thế tiêu diệt được tiếng Việt bởi lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cố vần sống theo cách sống riêng của mình, cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt.
    • Cố nhiên, dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài, trong cuộc sống đã xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần, đã nảy sinh những nhu cầu mới. Cho nên tiếng Việt cùng phải biến đổi vã phát triển. Trải nhiều thế kỉ tiếng Việt phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu nhiều yếu tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán. Người ta thấy những từ gốc Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã hấp thu ảnh hưởng Hán ngữ một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hóa những từ ngủ ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mới mà sau này ta gọi là từ Hán - Việt (Có một quá trình ngược lại, nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt-Hán).
    • Trước và trong thời Bắc thuộc, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai, Tạng-Miến, và nhất là An Độ (các từ chỉ cây trống như mít, lài.,., và đặc biệt ìà các từ ngữ thuộc về Phật giáo như Bụt, bồ đế, bồ tát, phù đồ, chùa, tháp, tăng già...) Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong phú.
    • Từ thời Hùng Vương, đã có một nền phong hóa riêng của người Việt cổ tuy còn giản dị, chất phác. Bọn đô hộ cổ sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó, nhất định có ảnh hưởng đến phong hóa Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống dân tộc và dân gian của nền phong hóa Việt Nam vần được gìn giữ và phát triển nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước, tính chất phụ quyến trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt thì mặt khác nó không thể ngăn cản được sự củng cỗ ở môt mức nhất định những truyền thống tích cực của xã hội làng xóm của ta, ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý kiến cho rằng sự thờ cứng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi Nho giáo được truyền bá tới miền này).
    • Nét đặc biệt, là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hóa Việt cổ, Lễ giáo Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ, cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe "tam tòng", "tứ đức" nhưng vẳn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm đánh giặc - và lành đạo nhân dân đánh giặc - của Hai Bà Trưng, Bà Triệu... Vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao.
    • Sách Nam phương thảo mộc trạng (thế kỉ III) chép rằng người Nam có con gái lớn vài tuổi đã bắt đầu nấu lọc rượu, đựng trong bình hũ kín, đem chôn ở bờ ao. Khi con gái sắp lấy chống, người ta mới đào bờ ao lấy rượu lên đãi khách, gọi là "Rượu con gái" (nữ tửu), vị rất đầm và ngon.
    • Theo Quảng Châu kí và nhiều sách khác, một phong tục cổ truyền của người Việt là đúc và sử dụng trống đồng. Trống đúc xong, cả làng được mời đến dự lễ mừng. Người được vinh dự đánh trống đồng đầu tiên là một phụ nữ trong làng.
    • Ngôi chùa được xây dựng vào loại sớm nhất trên đất Việt là chùa Pháp Vân (Thuận Thành, Bắc Ninh); chùa mang tên Bà Dâu, trong chùa, tượng Bà Dâu to hơn mọi tượng Phật v.v...
    • Cùng với phong tục dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc, xăm mình, chôn cất người chết trong quan tài hinh thuyến hay thân cây khoét rồng, tục nhuộm răng, ăn trầu cau... Theo Nam châu bát quận chỉ và Nam phương thảo mộc trạng, người Nam khi cưới xin hoặc tiếp đãi khách khứa trước hết là dùng trầu cau: nếu khi gặp nhau mà không mời trầu, người ta sẽ oán giận nhau.
    • Phong tục đặc sắc đó rõ ràng là một trong những phong tục cổ nhất và được duy trì thường xuyên suốt thời chống Bắc thuộc.
    • Từ thời Hán, nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao và có ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Nền văn học nghệ thuật ấy củng dần dần được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch, với mục đích nô dịch, nên mức độ truyền bá cùng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn chế nhiều. Nó là văn hóa ngôn từ (chứ không phải là chữ nghĩa sách vở) với phương thức thông tin truyền miệng. Nền văn nghệ dân gian của chúng ta khá giàu có và tiếp tục phát triển dưới dạng các huyền thoại, huyền tích hay ca dao, tục ngữ. Theo Giao châu ký, ở xóm làng, trẻ mục đồng vẫn ngồi trên lưng trâu thổi sáo và hát các bài dòng dao của người Việt. Cuộc sống của nông dân còn bị hạn chế trong khuôn khổ của xóm làng, vùng địa phương, với những điều kiện còn chật hẹp cho nên sự sáng tạo về nghệ thuật còn mang tính chãt giản dị Sự du nhập nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đà có một tác dụng tích cực nhất định đối với đời sống văn hóa Việt Nam, nhất là ở một số trung tâm trấn trị và buôn bán tập trung như Luy Lâu, Long Biên v.v ...
    • Cho đến một hai thế kỉ sau công nguyên, văn hóa Đông Sơn và nghệ thuật Đông Sơn vẫn tiếp tục tồn tại tuy đang trên đã suy thoái mạnh.
    • Dựa vào những hiện vật phát hiện được trong các mộ gạch cổ thuộc các thế kỉ I-VI, người ta hay nói đến sự này sinh một nên văn hóa nghệ thuật Hán- Việt trong thời gian này.
    • Trước hết cần chú ý rằng đây là những mộ lớn, xây dựng khá hào hoa, hiện vật phong phú. Nó chứng tỏ chủ nhân những mộ này thuộc tầng lớp trên trong xã hội. Phân lớn đó là mộ của bọn quan lại sĩ phu Hán cho nên thành phấn văn hóa Hán chiếm địa vị chủ đạo.
    • Một số ít những ngôi mộ đó có thể là của quan lại quý tộc người Việt và việc một bộ phận tầng lớp trên người Việt ít nhiều bị "Hán hóa", chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Hán, "theo phong hóa lễ giáo Trung Hoa" cũng không có gì là lạ. Vốn liếng văn hóa dân tộc căn bản do nhân dân lao động các xóm làng bảo tồn và phát triển. Di tích khảo cổ thời Bắc thuộc còn tìm được quá ít. Hiểu biết của chúng ta về văn hóa, văn nghệ Giao Châu thời này còn kém cỏi.
    • Vả lại, xem xét kĩ các hiện vật trong những ngôi mộ gạch nói trên, ta cũng tháy sự tồn tại một số di tích của nén nghệ thuật dân tộc. Có mộ gạch vẫn tìm thấy trống đồng, rìu có vai bằng đá. Nhiều trống đồng đã được cải biên: khi úp sấp, nó là trống đồng với phong cách nghệ thuật Đông Sơn đã biến thể; lật ngửa lại nó là chậu thau với trang trí hình cá và hình tiền đồng Hán. Trên nhiều mâm và bình bằng đất nung, ta vẫn thấy sự có mặt của những hoa văn hình xoắn ỗc đôi, hình chữ S hay hoa văn đường tròn có tiếp tuyến - là những hoa văn hình học Đông Sơn quen thuộc. Nhiều hiện vật Hán được cải biến theo phong cách Việt ví dụ những binh hình con tiện đời Hán, ở hai bên thành bình thường có "văn thao thiết" ta thường gọi là mặt hổ phù, song một số bình tìm được ở Bắc Ninh. Thanh Hóa thi mặt hổ phù được thay thế bằng hình đầu voi, vòi voi được sử dụng như vòi ấm...
    • Một vài tượng người bằng đồng được phát hiện trong các mộ cổ Lạch Trường, Đông Tác (Thanh Hóa) xét về mặt nhân chủng (tóc quân, môi dầy, mặt lổ) cũng như xét về phong cách nghệ thuật, không thuộc văn hóa Hán mà dường như có chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ.
    • Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ có chịu ảnh hưởng Trung Hoa như khánh, chuông... chịu ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Á như trồng cơm, hồ cầm, vẫn tồn tại những dụng cụ độc đáo của nển nhạc Việt như trồng, khèn, cổng chiêng...
    • Phần cốt lõi của văn hóa tinh thần, là tư tưởng mà ngày trước thường biểu hiện chủ yếu dưới hình thức tôn giáo, tín ngưỡng...
    • Phong tục tập quán thời các vua Hùng dựng nước nhìn chung còn thuần hậu, chất phác. Đó là phong hóa và tín ngưỡng của một cu dân sống trong một khung cảnh một nền văn minh nông nghiệp lúa nước đang phát triển.
    • Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong thời Bắc thuộc, người Việt mất nước chứ không mất làng. Bởi vậy, như một tác giả phương Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi "mặt tiền" (facade) mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong.
    • Đó là một hạn chế rất lớn của nen Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, giành lai độc lập dân tộc.
    • Nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc chỉ có bề dài của thời gian, chứ thiếu bề rộng trong không gian và càng thiếu hẳn bề sâu trong lòng cấu trúc của xã hội nước ta. Nền đô hộ ấy rất bạo ngược và thâm độc, song vẫn có phần hời hợt và chi có tác động trên bề mặt của xã hội Việt Nam.
    • Bắc thuộc và chổng Bắc thuộc hai mặt đối lập và đấu tranh quyết liệt đó chi phối toàn bộ cuộc sống Việt Nam và tiến trình lịch sử Việt Nam trong khoảng chục thế kỉ.
    • Trong cuộc đấu tranh đó, nền văn hóa cổ truyền của người Việt bị đặt trước một thử thách lớn lao. Nền văn hóa Hán được du nhập và truyền bá vào đất Việt, có mặt ôn hòa qua một số di dân Trung Quốc, song mặt chủ yếu là mang tính chất cưỡng bức qua bàn tay bọn đô hộ như một công cụ nô dịch và đồng hóa. Trong sự hỗn dung văn hóa cưỡng bức theo mưu đố Hán hóa của chỉnh quyền đô hộ, nển văn hóa Việt tránh sao khỏi những mất mát và ảnh hưởng. Văn minh Đông Sơn vào khoảng những thế kỉ đấu công nguyên đã bị suy thoái, bị giải thể cấu trúc và những mảnh vụn được bảo lưu của nó hòa tan vào nền văn hóa dân gian.
    • Mặt khác, nhân dân ta biết bảo tồn và phát huy những tinh hoa của văn hóa cổ truyền, nhưng cũng biết hấp thu có chọn lọc nhũng nhân tố văn hóa ngoại lai để làm phong phú cho nén vän hóa dân tộc và tăng thêm tiém lực cho mọi mặt của đất nước.
    • Nền văn hóa Việt Nam không co lại để tự vệ một cách bảo thủ và cô lập. Nó không chối từ những đóng góp của những yếu tố bên ngoài, mà còn tỏ ra có khả năng thu nạp và dung hóa mạnh những cái hay, cái đẹp của các nén văn hóa ngoại lai, kể cả các nước đang xâm lược và đô hộ mình. Đáng lưu ý là trong văn hóa Trung Quốc được, truyên bá xuống phương Nam có những yếu tố vốn là của Bách Việt được người Hán hấp thu, hệ thống và nâng cao thêm, nên nó được người Việt tiếp nhận khá dễ dàng. Qua thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân dân ta đã tìm biết một Trung Hoa cao cả và tốt đẹp của nhân dân Trung Hoa, để đãu tranh chống lại cái Trung Hoa tàn bạo, thấp hèn của các đế chế Hán - Dường.
    • Như vậy, trong diễn trình văn hóa Việt Nam thời Bắc thuộc có hai khuynh hướng đối lập:
      • Khuynh hướng Hán hóa là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai, phần nào có tác động gần như vô thức về phía dân gian.
      • Khuynh hướng Việt hóa nhằm giữ lại và phát huy những tinh hoa văn hóa cổ truyền đã được định tỉnh và định hình từ thời đại dựng nước, hấp thu, hội nhập những yếu tố văn hóa bên ngoài theo yêu cầu của cuộc sống và thời đại; sắp xếp, cấu trúc lại trên nền tảng Việt.
    • Dĩ nhiên khuynh hướng thứ hai là chủ đạo và trên cơ sở đó, trong cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, đất nước ta không bị diệt vong, dân tộc ta không bị đồng hóa, mà còn lớn lên vễ mọi mặt để có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần chiến tháng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, giành lại độc lập dân tộc.
    • Đối lập lại chủ nghĩa "binh thiên hạ" của kẻ thù, nhân dân ta ra sức khắc phục tư tưởng bộ lạc, khuynh hướng tản mạn trong lòng xã hội cũ, phát huy mạnh mẽ những tư tưởng lớn của Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, 'ý chi độc lập tự chủ, tinh thản tự lập tự cường.
    • Đối lập với bộ máy Nhà nước đế chế và tổ chức chính quyền đô hộ theo quận, huyện, nhân dân ta lo bảo tồn củng cố cộng đồng xóm làng, biến thành những pháo đài xanh chống đồng hóa, chống Bắc thuộc, dựa vào làng và xuất phát từ làng mà giành lại nước.
    • Đối lập với sức mạnh của một đế chế lớn mạnh, đông dân, nhiêu của, đông quận, nhân dân ta đã tạo lập nên sức mạnh vô địch Việt Nam là sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khởi nghĩa chống Bắc thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính quán chúng rộng rãi, mau chóng phát triển thành chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc. Nhờ đó, trong cuộc đấu tranh trường kì chống Bắc thuộc, lực lượng dân tộc ta vẽ mọi mặt tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, quân sự. , đều trưởng thành và cuối cùng, thế kỉ X với chính quyển tự chủ họ Khúc, họ Dương, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử do Ngô Quyền lành đạo, cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
    Văn hóa Chămpa
    • Người Chăm là một tộc người thuộc chủng Nam Á. Ngôn ngữ của họ thuộc ngữ hệ Malai-Pôlinêdi. Cùng với người Việt ở Bắc Bộ, các nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Môn-Khơme và Malai-Pồlinêdi ở Nam Bộ, người Chăm là một trong những nguồn cội của các dân tộc Việt Nam ngày nay. Trong thời cổ đại và trung đại, người Chăm đã có một nền văn hóa riêng rực rỡ, không thua kém bất cứ một nền văn hóa nào ở Đông Nam châu Á.
    • Vương quốc Chămpa là vương quốc (Mandala) của các tiểu vương quốc tồn tại gắn 15 thế kỉ (từ thế kỉ II đến thế kỉ XV), phân bố ở miễn Trung Việt Nam từ núi đến biển, gián cách nhau bằng các đèo, từ đèo Ngang đến đèo Cả - Đại Lành... có độc lập và liên lập, có một tổng thể văn hóa chung mà cũng có sắc thái văn hóa vùng. Đó là bốn vùng lớn ở các đống bằng nhỏ ven biển : Amaravati (địa phận các tinh Quảng Bỉnh - Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam - Đà Nẵng; Vijaya (Quảng Ngãi, Bình Định); Kauthara (Nha Trang- Khánh Hoà) và Panduranga (Phan Rang, Phan Thiết).
    • Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và những di tích khảo cổ trên và trong lòng đất trùng hợp với phân bố của văn hóa Sa Huỳnh. Niên đại khởi đầu của vương quốc Chămpa theo thư tịch Trung Hoa cổ là vào cuối thế kỉ II (năm 192, Khu Liên đã lập nước Lâm ấp ở vùng đất Quảng Nam ngày nay. Đó là nước Chămpa của người Chăm với đô thành sư tử (Sximhapura - nay là Trà Kiệu, Duy Xuyên). Chúng tôi nghỉ rằng có lẽ người Hán đã hiểu đô thành sư tử thành rừng Voi (Tượng Lâm). Ngoài ra, bia Võ Cạnh ở Nha Trang có niên đại thuộc thế kỉ II sau công nguyên, cũng đã nói đến một quốc gia do Srimara sáng lập. Niên đại này trùng với niên đại của khu mộ chum Gò Đình (Đại Lành, Đại Lộc - Quảng Nam), Hậu Xá (Hội An - Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi).
    • Sự trùng hợp về không gian, thời gian, của một số loại hình hiện vật, một số ngành nghề... cùng với suy luận lô gích đã cho thấy văn hóa Chămpa nảy sinh từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm cổ là con cháu người Sa Huỳnh cổ.
    Đặc trưng văn hóa
    • Từ thập kỉ 60 trở về trước, nhiều học giả phương Tây, đặc biệt G.Coedes, thường coi Chămpa là một quốc gia Ấn hóa sự thực, ảnh hưởng văn hóa - tôn giáo của Ấn Độ đối với Champa là rất mạnh mẽ và không ai phủ nhận được. Song học giả Paul Mus cũng đã nhận ra nhiều nét bàn địa - tiền Ấn Độ hóa trong văn hóa Chămpa. Trong quá trình tiếp thu văn hóa Ấn Độ, người Chămpa đã kết hợp hài hòa giữa yếu tố văn hóa địa phương (nội sinh) và văn hóa bên ngoài (ngoại sinh) trên cơ sở môi trường tự nhiên và "tâm tí dân tộc để sáng tạo ra nền văn hóa của mình có những nét chung, song có nhiêu nét riêng so với những văn hóa láng giềng khác ở Đông Nam Á cũng tiếp thu ánh hưởng của văn mình Ấn Độ.
    • Ảnh hướng của văn hóa Ấn Độ tới Đông Nam Á (chính xác hơn là sự trao đổi buôn bán và bên cạnh đó là trao đổi kỉ thuật, ý tường giữa hai vùng đất này) có thể nói là từ những thế kỉ trước công nguyên, qua những tư liệu khảo cổ học của văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn. Mối quan hệ - ảnh hường văn hóa này được đẩy mạnh từ đầu thiên niên kỉ I công nguyên. Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng cường các ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ theo các nhà nghiên cứu chính là thương mại. Các nguồn tư liệu khác nhau cho biết, nguồn hương liệu, gỗ trầm, các loại dầu thơm, long não, cánh kiến trắng và đặc biệt là văng vô cùng phong phú ở Đông Nam Á đã thu hút các thương nhân Ấn Độ tới Đông Nam Á nói chung và Chămpa nói riêng. Theo sau các thương nhân, thậm chí cùng các thương nhân là các tu sĩ Bàlamôn, các nhà sư. Do thâm nhập chủ yếu qua văn hóa mà lại bàng những phương thức hòa bình, nên những ảnh hưởng của Ấn Độ đã để lại những dấu ấn thật sâu sắc đối với vương quốc Chămpa.
    • Trước hết, mô hình của Ấn Độ về tổ chức chính trị và vương quyển đã được người Chămpa áp dụng triệt để. Vua là hiện thân của thần trên mặt đất và cũng là người bào vệ thần dân giữ gìn trật tự đất nưâc theo "luât riêng". Các vua chúa Chămpa do vậy, là những người nhiệt thành với các tôn giáo Ấn Độ Về nguyên tắc, việc truvền ngôi tiến hành theo huyết thống nhưng đôi khi không phải như vậy mà do triều đình cử ra. Dựa vào các nguồn tư liệu, chúng ta có thể hình dung khái quát bộ máy chỉnh quyền và hành chỉnh của Chămpa thời cổ. Toàn bộ đất nước được chia làm ba (bốn) khu vực: Amaravati ở phía Bẳc; Vijaya ở giữa; Panduranga ở phía Nam và có thể Kauthara được tách thành khu vực thứ 4.
    • Cũng theo các nguồn sử liệu, Chămpa được chia thành 38 châu lớn nhỏ. Nhà vua dùng anh em làm phó vương hay thứ vương và lập quan lại cai trị mà tên gọi các chức quan hay đơn vị hành chính đều có nguồn gốc từ các thuật ngữ Ấn Dộ. Cùng với việc tiếp nhận mô hình tổ chức chính quyền, người Chămpa tiếp nhận cả hệ thống đảng cấp của Ấn Độ, mặc dầu hệ thống đẳng cấp này của người Chăm không khát khe và nhiều trường hợp mang tính hình thức.
    • Bên cạnh việc tiếp nhận về mô hình tổ chức chính trị, là sự tiếp nhận về mô hình tôn giáo các tôn giáo Ấn Độ đã có mặt ở các vùng đất thuộc vương quốc Chămpa sau này ngay từ đầu công nguvên (Bia Võ Cạnh niên đại thể kỉ II mang nội dung về tư tuởng Phật giáo; tượng Phật hằng đống ở Đông Dương có niên đại thế kỉ IV,..) Tiến trình lịch sử của các tôn giáo Ấn Độ ở Chămpa có những đặc điểm (theo nhã nghiên cứu Ngô Văn Doanh là: "Suốt hơn 12 thế kỉ tồn tại, Champa liên tục những tôn giáo Ấn Độ làm tôn giáo của mình:
      • Như nhiều quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á, ở Chămpa không có kỉ thị tôn giáo mà ngược lại, bao trùm lên toàn hộ lịch sử Chămpa là sự hỗn dung giữa tất cả các tôn giáo và giáo phái của Ấn Độ Người dân Chămpa tiếp nhận tất cả: đức hiếu sinh, từ bi của Phật giáo, tình thương của Visnu giáo và cả tính hung bạo và quyển lực của Siva giáo.
      • Tính chất Siva giáo là đặc trưng chủ đạo trong đời sống tôn giáo của vua chúa Chămpa.
    • Tuy nhiên, nhiều trường hợp những yếu tố của tôn giáo Ấn Độ lại chỉ là cái vỏ, cái hình thức bề ngoài của các tín ngưỡng bản địa, chủ yếu là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Mẹ của người Chăm.
    • Về phương diện ngôn ngữ, người Chămpa đã sớm tiếp thu hệ thống văn tự cổ Ấn Độ để sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ chữ Phạn (Sanskrit) - một thứ chữ cổ ở Ấn Độ, người Chăm đã sáng tạo ra chữ Chăm cổ (khoảng thế ki IV- V). Ngoài những tài liệu bia kỉ, các sử liệu Trung Quốc còn cho chúng ta biết, ngay từ trước thế kỉ VII, người Chăm đã dùng văn tự của mình để ghi chép kinh sách và trao đổi thư từ. Như vậy bên cạnh chữ Phạn, chữ Chăm cổ luôn được người Chăm cải tiến và sử dụng.
    • Từ thời xưa, người Chăm đã biết dùng lịch Có một hệ thống lịch pháp Ấn Độ đã du nhập vào Chămpa và người Chăm đã dùng lịch này từ đó đến nay. Trong hệ thống lịch này, ngày âm (ngày tinh theo lịch trăng) là đơn vị cơ bản Một tháng được chia làm hai tuần, tuần sáng và tuần tối. Một năm có 12 tháng âm, 6 mùa tuần có 7 ngày, có rên gọi riêng và tương ứng với một hành tinh. Ngoài ngày, tháng, năm lịch Ấn Độ còn có cách tính thời gian theo kì nguyên. Căn cứ vào các triều đại, các tiểu vương, kỉ nguyên được dùng thông dụng ở Ấn Độ và có ảnh hưởng tới vùng Đông Nam Á là kỉ nguyên Saka (năm 78 sau công nguyên). Lịch Chăm vì thế còn được gọi là lịch Saka.
    • Âm nhạc và múa có vai trò rất quan trọng, trong đời sống tinh thần của người Chăm, nhất là những nghi lễ và hôi lễ mang tính chất tôn giáo, tín ngưởng như: lễ tết Katê, lễ mở cửa thánh, lẽ cấu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ, những buổi lên đồng. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tuỳ thuộc vào tính chất các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau Trống BranƯng và trống Kynãng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo. Người Chăm có các loại múa: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể và độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng.
    • Nói tới Chămpa là phải nói tới hệ thống đền tháp. Đầu thế kỉ này tháp Chăm còn khoảng 100 chiếc, hiện nay còn khoảng 70 chiếc (với những phế tích còn lại suốt từ Quảng Bình cho tới Tây Nguyên, các nhà nghiên cứu ước tính đã có tới hơn nghìn tháp lớn nhỏ). Tháp Chăm được xây dựng rải rác khắp nơi và có những quần thể kiến trúc lớn như Mỹ Sơn, Đồng Dương (Quảng Nam), Pônaga (Khánh Ilòa)... Dù được xây dựng ở nhiều thời điểm khác nhau, có khác biệt về chi tiết kiến trúc, điêu khắc song trên cơ bản loại hình, cấu trúc hầu như thống nhất. Chúng được xây dựng theo mẫu số chung và thể hiện biểu trưng tôn giáo Ấn Độ Tháp Chăm được xây dựng theo mô hình tháp Ân Độ, song bé nhờ "tinh tế" và được "Chăm hóa". Tháp (người Chăm gọi là Kalan), bao quanh là những ngôi tháp nhỏ, hoặc những công trình nhà chờ, nhà nguyện... phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo.
    • Tháp thường được xây dựng trên đồi gò cao theo biểu tượng núi Meru trong tôn giáo Ấn Độ - Biếu trưng trung tấm vũ trụ, nơi ngự của các thần linh- Tháp Chăm có thể đồng thời mang ba chức năng: Đến thờ Thần, Đền - Mộ, Đền - Nơi ở của các vị thần. Tháp thường có bình đổ vuông, bố cục hướng tâm, chia thành ba phấn đế, thân, mái. Bốn cạnh mở bốn cửa. Cửa chính đi vào lòng tháp mở về hướng Đông, có kết cấu nhô dài về phía trước với vòm cuốn, trang tri đẹp Ba cửa còn lại chỉ là hình thức (cửa giả). Mái tháp có ba tầng thu nhỏ dần vươn lên cao mỗi tầng thể hiện như mô hình của tháp thu nhỏ (có vòm cửa giả, cửa giả thu nhỏ). Lòng tháp hình vuông cao vút, tường lòng xây thẳng đứng, từ phán mái lòng tháp thu nhỏ dần lên đỉnh, tạo nên phán trên hình vòm cuốn đều nhau ở trong lòng. Mặt bằng lòng tháp hình vuông không rộng lấm, đủ để đặt một bộ linga-yoni. Quanh bệ thờ nãy là lối đi nhỏ dành cho người đi hành lễ.
    • Xung quanh tháp chính còn có nhiều tháp phụ bên trong đạt thờ các vị thần Ấn Độ giáo. Ở một số khu thấp mà điển hình là khu Pônaga bên cạnh những tháp hình vuông mái nhọn, xuất hiện những tháp mái cong hình thuyên tựa như mái nhà sàn Đông Sơn.
    • Tháp Chăm chủ yếu được xây bằng gạch. Đá chỉ sử dụng trong trang trí và một số chi tiết kiến trúc như mí cửa, vòm, trụ... Người Chăm là bậc thầy trong nghệ thuật xây gạch và hiện nay còn nhiều ý kiến, giả thuyết xung quanh vấn đề này.
    • Tháp Chăm được trang trí tinh tế, cầu kì thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật điêu khác và nghệ thuật kiến trúc. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra những phân kì trong phong cách xây dựng tháp và phong cách nghệ thuật Chămpa. Chủ để chính trong điêu khắc trang trí tháp là hoa lá, hình người, hình động vật, các thần, các con vật huyên thoại theo nôi dung tôn giáo hoặc sử thi Ấn Độ.
    • Nền điêu khác Chăm nổi tiếng với phù điêu và tượng tròn trong đó phù điêu có nhiều hinh thức, trước hết là chạm khác trực tiếp lén gạch tháp (nghệ thuật này của người Chăm cũng đạt tới đỉnh cao) hay tạo hỉnh trang trí trên gạch trước khi nung, ngoài ra còn chạm khắc trên đá (thường là đá granii màu xanh xám và đá silic).
    • Nét đặc sắc của điêu khác Chămpa là những hình chạm khắc dưới dạng phù điêu đều hướng tới tượng tròn (phù điêu nổi cao). Điêu khác Chămpa không có sự rạo rực, sôi động như phu điệu Khơme, từng nhân vật, từng nhóm nhân vật như tách rời nhau, độc lập và gần như biến thành những tượng tròn riêng biệt. Từng tượng như nở tung ra, bứt ra vươn ra khỏi giối hạn kiến trúc quy định. Do đó, tính hoành tráng, tính ấn tượng tạo ra vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khác cổ Chămpa.
    • Dựa vào các yếu tố trang trí mĩ thuật trên tháp, sự thay đổi của kết cấu kiến trúc, sự xuất hiện hay mất đi của các mó típ trang trí kết hợp với những tài liệu liên quan (bia kí, tư liệu lịch sử) người ta chia nghệ thuật trang trí tháp thành nhiều phong cách và vạch ra quá trình phát triến của chúng tương ứng với các thời kì lịch sử.
    • Người Chăm có một nến kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông trồng lúa nước - dâu tầm - bông “ hoa màu (vài nhiều giống cây ngoại nhập từ Nam Thái Bình Dương như mía, khoai, nghề rừng - khai thác lâm thổ sản gỗ quý như quế, tràm hương, hạt tiêu; nghề biển; nghề thủ công trên sát, dệt vài lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá ngọc, khai khoáng và làm mĩ nghệ văng bạc..., phát triển nghề buôn bán đường biển, đường sông và đường núi. Cơ cấu kinh tế này là sự kế thừa và phát huy cơ cấu có sản tuy chưa hoàn chỉnh của văn hóa Sa Huỳnh.
    • Người Chăm đã có những tiến bộ về nông nghiệp mà đầu tiên là phát hiện ra giống lúa chịu hạn (sử sách gọi là lúa Chiêm Thành hav lúa Chiêm, lúa Chăm), gieo cày cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa ở ruộng bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng với vùng đất khô hạn Trung Bộ, người Chăm đã có hàng loạt các biện pháp thủy lợi như cọn nước, giếng, hô đập... đặc biệt là hệ thống khai thác nước mạch chảy ra từ những cổn cát, đổi gò mà vết tích hiện nav vần còn thấy ở Quảng Trị, Ninh Thuận, Bình Thuận.
    • Nghề làm gốm cũng rất phát triển, đa dạng phong phú về kiến loại, trang trí tiến bộ về kĩ thuật (lọc đất, bàn xoay, lửa nung khống chế đều...,). Bên cạnh việc kế thừa một số loại hình gia dụng của văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm đã sớm tiếp thu và phát triển những kĩ thuật làm gồm ngoại nhập từ Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á. Những tư liệu khảo cổ học gần đây ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi... cho thấy bên cạnh gồm thô kiểu Sa Huỳnh còn có gốm Trung Hoa (Hán- Đường), gồm Ấn (tuy it ỏi) và đặc biệt gốm Chăm làm theo kiểu Hán - Lục Triều mà điển hình là các loại vò trang trí văn in ô vuông, ô trám lồng, loại bình có quai hình đia tựa như loại hổ (Trung Hoa). Bên cạnh đó người Chăm sản xuất và sử dụng rộng rãi Kendi. Cả ràng, những kiểu đổ gốm phổ biến khắp vùng Đông Nam Á.
    • Bên cạnh nghề gốm, nghề kim hoàn cũng rất phát triển, ngoài việc chế tác và sử dụng đố trang sức bằng đá mã não và thuỷ tinh giống như người Sa Huỳnh, cư dân Chămpa đặc biệt ưa thích những đồ trang sức, trang trí bằng vàng như hạt chuỗi, nhẫn, khuyên tai, trang sức chạm đá quý... Bên cạnh đó họ cũng sản xuất và sử dụng những bộ đồ lễ, đồ thờ bằng vàng, bạc, đồng thau với kích thước lớn, trang trí tinh xảo và nhiểu kiểu dáng. Thư tịch cổ Trung Hoa còn ghi lại những đến đài Chăm bị phá, các bức tượng bị nấu thành thoi - được 100 ngàn cân vàng nguyên chất. Hiện nay nhiều hiện vật bằng vàng, bạc, đồng của Chămpa được lưu giữ trong kho của các dòng họ Chăm, trong các sưu tập tư nhân.
    • Sự giàu có, phong phú cho thấy cư dân Chăm đã có cơ cấu kinh tế thích hợp Người Chăm có cái nhìn hướng biển, dù nền văn hóa của họ là nền văn hóa đa sắc thái, song vượt trội là sắc thái biến. Cư dân Chăm cổ thường xuyên có mạt ngoài khơi, ngoài đảo xa, đánh củ, buồn bán, thường xuyên trao đổi kinh tế - văn hóa với thế giới hải đảo Thái Binh Dương, Ấn Độ Dương. Bờ biển miền Trung đã nối tiếng trong lịch sử cố trung đại với những hệ cảng thị, với nhiều cảng (sống - biển) và nhiều thị (sông - biển), từng được ghi vào hải đồ của những thương nhân Ấn Độ, Trung Hoa,Ảrập mà điển hình là cảng Hội An, cảng Thị Nại.
    Văn hóa Óc Eo
    • Óc Eo là tên một di tích khảo cổ học ở cánh đồng Giống Cát – Giống Xoài tiếp giáp về phía Đông và Đông Nam núi Ba Thê, nay thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tình An Giang. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cố học Pháp L. Malleret đã tiến hành khai quật ở đây. Từ sau cuộc khai quật này bát đầu xuất hiện, khái niệm văn hóa Óc Eo.
    • Tới nay, hàng trăm di tích của nền văn hóa này đã được phát hiện và khai quật ở hầu khắp các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Việc khai quật có hệ thống trong những năm sau 1975 các di tich văn hóa Óc Eo của các nhà khảo cổ học Việt Nam đã đem lại cho chúng ta những nhận thức đầy đủ hơn về nền văn hóa này như nguồn gốc, niên đại, phạm vi phân bố, loại hình di tích, di vật, đời sống văn hóa xã hội.
    • Cư dân Óc Eo cư trú trên một địa bàn rộng lớn, ở nhiêu tiểu vùng sinh thái khác nhau và ở mỗi tiểu vùng này có những đặc trưng riêng vẽ xây cất nhà ở, đến tháp, cách thức làm ăn, đi lại.
    • Tiểu vùng tứ giác Long Xuyên: Vào những năm 1931-1936, P.Paris đã nhận biết trên không ảnh 30 đường nước cổ, đây là nói tập trung các di tích lớn như Óc Eo, Ba Thê, Đá Nổi, những di tích này nằm ở vị tri giao hội của các đường nước. Theo L.Malleret, bản thân Óc Eo là "thị cảng". Ngoài ra, trong khu tứ giác Long Xuyên có các di tich cư trú nhà sàn, xưởng thủ công, kiến trúc đến thờ, đền tháp, mộ hỏa táng.
    • Tiểu vùng Đồng Tháp Mười: Di tích phân bố ở nhiễu vị trí khác nhau. Di tích có quy mô nhỏ. Dân cư sống ở trên nhà sàn hoặc nhà đất. Ngoài ra, còn cố kiến trúc đến tháp, mộ hoả táng, bia kí.
    • Tiếu vùng ven biển Tây Nam (vùng u Minh - Năm Căn): Di tích đều tập trung ở vùng trũng. Ở đây có di tích nhà sàn, kiến trúc đá, mộ táng, bệ thờ, tượng thắn. Đặc biệt là 10 di cốt cá thể người Cạnh Đền là di tích lớn nhất, có thể là "cảng khấu".
    • Tiểu vùng rừng sác Duyên Hải: Di tích là những gò đất đắp nổi cao hơn mặt biển từ l-3m, rộng từ 200-600m2. Đó là các dì tích ’’Giống”. Qua di vật, người ta thấy đây là nơi giàu tiếp giữa văn hóa Óc Eo, Đồng Nai và Sa Huỳnh.
    • Tiểu vùng ven biển Đông – từ sông Tiến đến Minh Hải: Các di tích Óc Eo phân bố ở đồng bằng ven biển, giáp sông Tiền và sông Hậu, ở các giống cao và các trũng thấp kế cận ở đây có các kiến trúc lớn như Lưu Cừ II, Trà Cú, Gò Thành, di tích mộ táng, mình văn chữ Phạn, di tích cư trú.
    • Tiểu vùng Đông Nam Bộ: Đây là vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống đồng bằng sông Cửu Long. Di tích di vật Óc Eo phân bố rải rác, có kiến trúc gạch đá hỗn hợp tượng thần như di tích Gò Cây Mai, Binh Tả, Gò Xoài. Các di tích văn hóa Óc Eo ở Đông Nam Bộ, thường tập hợp thành cụm kiến trúc. Mỗi kiến trúc nằm trên một gò đất đắp nổi. Loại di tích phổ biến là đền tháp. Theo nghiên cứu gần đây ở đất Đông Nam Bộ đặc biệt phát triển các di tích giai đoạn muộn từ thế kỉ VII và được gọi là văn hóa hậu Óc Eo. Trong đó vùng Biên Hòa, Long Thành là một trung tâm phát triển ở hạ lưu sông Đồng Nai - Cận biển. Vùng Nam Cát Tiến là một trung tâm lớn ở trung lưu nội địa, hợp thành thế cân bằng cho sự tồn tại và phát triển của văn hóa này.
    • Như vậy địa bàn sinh tụ của cư dân văn hóa Óc Eo rất rộng lớn, họ giỏi thích ứng với những hoàn cảnh sinh thái khác nhau để tạo lập cuộc sống ổn định và xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa đặc sắc của mình. Các nhà khảo cổ đã tìm được hãng loạt di tích, di vật nói lên trnh độ phát triển cao, quy mô rộng lớn và rất đa dạng của công việc xây dựng thời Óc Eo, Người Óc Eo ở nhà đất và nhà sàn, phổ biển là nhà sàn. Dấu tích nhà sàn (cột gỗ, sàn nhà, mái nhà (mái lá dừa nước) đã được ghi nhận ở các di tích Óc Eo, Lung Giếng Mé, Đá Nổi (An Giang), Nền Chùa, Cạnh Đén (Kiên GiangL Gò Tháp (Đồng Tháp).., nhà sàn được dựng thành cụm kéo dài hàng cây số dọc Lung Giếng (Óc Eo-Ba Thê), hoặc thành từng vùng rộng gấn 1000 m2 (Lung Giếng Mé), Cư dân Óc Eo xây đựng nhiều công trình phục vụ tôn giáo, tang ma như đền thờ, đền tháp và mộ hoả táng.
    • Rất tiếc rằng, hầu như các công trình đã bị phá hủy gán hết, chỉ còn móng, nền. Các công trình này có quy mô lớn, diện tích rộng, xây dựng kiên cố bằng gạch, ngói, đá. Đặc biệt là các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được loại hình mộ táng mà các học giả Pháp chưa biết đến. Những ngôi mộ này hấu hết được ốp đá hay gạch ở mật trên tạo thành một bể mặt khá bằng phẳng. Huyệt mộ cũng có nhiều loại: hình vuông, hình chữ nhật và hình phễu. Vách mộ được kè đá hay xây gạch. Đô thị đã xuất hiện nhiều, đó là các khu dân cư lớn như Óc Eo - Ba Thê, Cạnh Dễn ... Ở những nơi này có đủ các dạng kiến trúc như nhà ở của dân cư, đến tháp, xưởng thợ, mộ hỏa táng.
    • Người Óc Eo trống trọt trên nhiều loại thổ nhưỡng khác nhau, chủ yếu là trồng lúa, Lúa có nhiều loại khác nhau, có loại lúa hạt tròn, lúa bản địa, có loại lúa hạt dài - lúa ngoại nhập, có loại lúa hoang dại. Lúa được gieo cấy ở ruộng rẫy hay ruộng trũng. Hình thành những trang trại lớn, có vưòn tược, kênh đào. Đã tìm thấy lúa gạo trong các di tích, mình văn và thu tịch cổ cũng nói về nghề trồng lúa của Óc Eo. Ngoài trồng lúa, cư dân Óc Eo còn trống dừa, mía, cau và nhiều loại cây quả khác. Hoạt động chân nuôi thuần dưỡng khá phát triển. Ở các di tích đã tìm thầy nhiều di cốt động vật như trâu, bò, lợn, chó...
    • Các nghề thủ công phát triển cao rất đa dạng và tinh xảo. Qua các di tích, di vật có thể thấy được sự tồn tại và phát triển của các nghề thủ công sau:
      • Nghề làm đồ trang sức, nhất là trang sức bằng vàng. Đã tìm thấy nhiều di chỉ xưởng ở các khu dân cư lớn như Óc Eo-Ba Thê (An Giang), Nền Chùa, Cạnh Đến (Kiên Giang), Gò Tháp (Đống Tháp), Gò Hàng (Long An). Đồ trang sức bằng vàng có rất nhiều loại, được chế tác bằng nhiều kỉ thuật khác nhau, gồm có loại, hình trang sức như nhẫn, hoa tai, hạt chuỗi... và các lá vàng rất đa dạng và phong phú về loại hình, đề tài chạm khắc. Phần lớn là những biểu tượng thuộc Bàlamôn giáo và Phật giáo. Ta gập trên các lá văng hình - người mà chủ yếu là hình các thân, hình động vật như bò, voi, rùa, rán, cá, ốc, hình hoa sen, hình bánh xe và nhiều lá văng có khác chữ. Đồ sộ nhất là bộ sưu tập tại di tích Đá Nổi (317 hiện vật).
      • Trong ngôi mộ số 2 Đá Nổi đã phát hiện một linga bằng vàng gán trên bệ đồng (cao 0,104 m); linga đâm xuyên qua một lá văng mỏng tượng trưng cho màng trinh; một hình ảnh cụ thể sinh động về quan niệm và nghi thức thờ linga ở thời đại đó. Ngoài đồ trang sức bằng văng còn có nhiều loại bằng đá quý, thủy tinh gồm các loại hạt chuỗi, cườm tấm, hạt chuỗi lưu li, thạch anh, thủy tinh, mã não, đá màu da cam... được chế tác rất công phu; có loại cườm đường kính chỉ lmm. Các loại hạt chuỗi được ghép bàng nhiều chất liệu và màu sắc khác nhau, có loại được tách và mài từ đá cứng. Nhiểu viên đá quý được tìm thấy trong tầng văn hóa và trong các ngôi mộ từ loại trong suốt cho đến các loại màu xanh lơ, xanh nước biển, màu da cam, màu hồng, phớt tím, hồng tím. Ngoài ra còn có những con dấu trên có khắc hình người, sư tử hay bò, hình thuyên hoặc có chữ.
      • Nghề gia công kim loại màu, nhất là hợp kim thiếc cũng rất độc đáo. Dấu tích xưởng sản xuất thấy ở Óc Eo-Ba Thê, Đá Nổi, Cạnh Đến. Đồ thiếc phong phú đa dạng đến mức, có người coi văn hóa Óc Eo là văn hóa đổ thiếc.
      • Nghề chế tác đá bao gồm chế tác đố gia dụng và điêu khắc đá cũng rất phát triển. Đồ gia dụng có các loại hình cối, chày, bàn nghiền. Các bức tượng Phật, Thán tìm thấy hầu hết ờ các di tích.
      • Nghề làm gốm cũng là một nghề khá phát triển đồ gốm đa dạng phong phú về hình loại, được chế tác bằng bàn xoay, màu sắc đẹp, đều. Phổ biến là loại hình Cả ràng, chén bát, bình vò, bát bồng, chai gốm... Bên cạnh đó là nghề sản xuất vật liệu xây dựng phục vụ cho việc xây dựng đến thờ, đền tháp, mộ hỏa táng.
    • Ngoài các hoạt động sản xuất, hoạt động trao đổi buôn bán cũng khá phát triển ở cư dân Óc Eo. Khảo sát các di tích, các nhà khoa học đã cho biết có nhiều đồng tiền vàng, đồng, thiếc (có những đồng được cát đôi, cát tư, cát tám để làm tiền lẻ) đã được tìm thấy.
    • Căn cứ vào sử liệu cổ văn tự, đặc điểm trang trí, đồ gốm... và đặc biệt là những kết quả phân tích C14 của các địa điểm cho thấy niên đại từ thế kỉ I sau công nguyên đến thế kỉ thứ VIII sau công nguyên nói chung là phù hợp với niên đại văn hóa Óc Eo.
    • Trước đây, người ta thường cho rằng chủ nhân của nền văn hóa này là tổ tiên của người Khơme. Nhưng những nghiên cứu và nhũng khám phá khảo cổ học gắn đáy đã chứng minh ngược lại. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Óc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khơme. Những di vật Tiến Óc Eo là ở Gò Cây Tung (An Giang), Gò Cao Su (Long An), Giồng Cá Vổ (Cần Giờ - Thành phố Hồ Chi Minh)... đặc biệt là bôn có mỏ, rìu tứ giác và gốm vản in là đặc trưng cho vùng bán đảo Mã Lai và Giava là những nơi người nói tiếng Nam Đào cư trú. Hơn nữa từ sự phân tích các sọ cổ và xương người cổ ở những di tích văn hóa Óc Eo, các nhà nghiên cứu đều thống nhất, đây là thuộc giống người Inđônêxia. Do đó, có thể nghĩ rằng cư dân chủ nhân văn hóa Óc Eo, hay là bộ phận lớn của nó, là nói tiếng Nain Đảo.
    • Với những khám phá mới gần đây về các di tích, di vật của giai đoạn tiến Óc Eo. GS Hà Văn Tấn cho rằng có một hay những con đường tiến lên văn hóa Óc Eo từ di chi thời đại kim khi đặc biệt là các di chi thời đại sắt ở Nam Bộ. Có nghĩa là có thể tìm được cội nguồn văn hóa Óc Eo từ bản địa. Nhưng đồng thời ngay ở giai đoạn tiên Óc Eo đã thấy có ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến văn hóa Óc Eo chi là sự tăng cường các ảnh hưởng đã có từ trước.
    • Thiên niên kỉ đầu công nguyên đi qua trên đất Việt Nam với ba nền văn hóa: Văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ, văn hóa Chămpa và văn hóa Óc Eo. Diễn trình của văn hóa Việt Nam chính là tổng hòa diễn trình của ba nền văn hóa này. Mặt khác, nội tại ba nền văn hóa cũng có những nét khác nhau, do đặc thù xã hội, lịch sử từng vùng. Ở châu thổ Bắc Bộ, Bắc thuộc và chống Bắc thuộc là vấn đề cơ bản của thời đại. Bởi vậy mà sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa cũng diễn ra dưới sự chỉ phối này.
    • Trong khi đó, văn hóa Chămpa ở Trung Bộ, văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ lại tiếp xúc một cách tự nhiên với văn hóa Ấn Độ, khiến cho chúng có gương mặt riêng với những đặc điểm riêng. Dù vậy, diễn trình lịch sử của ba nền văn hóa này văn có nét chung của có tầng văn hóa Đông Nam Á và sẽ phát triển ở giai đoạn sau.