Đóng vai Trương Sinh kể lại Chuyện người con gái Nam Xương Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương qua lời của nhân vật Trương Sinh Mở bài: Chuyện ma quỷ hiện linh lưu truyền trong nhân gian xưa nay không hiếm, tôi chưa hẳn đã tin. Nhưng cầm chiếc trâm cài trong tay, tôi mới hay Phan Lang quả thật đã không nói dối. Chiếc trâm hoa này chính tôi đã mua tặng cho Vũ Nương khi cưới nàng về là vợ. Nghĩ lại cảnh đời trớ trêu tôi càng ân hận và thấy thương Vũ Nương vô cùng. Thân bài: Tôi là Trương Sinh, vốn sinh ra là con nhà hào phú. Cha tôi mất sớm, chỉ còn có mẹ già nhưng gia cảnh vẫn hết sức sung túc. Thực hiện niềm mong mỏi của mẹ, có người nối dõi tông đường về sau, tôi ngày đêm ưu tư, tìm kiếm người con gái thảo hiền để mẹ có người bầu bạn sớm hôm cho đỡ hờn tủi. Nghe ở huyện Nam Xương có một người con gái tên là Vũ Thị Thiết tôi đã đem lòng yêu mến. Nàng tuy con nhà nghèo khó nhưng là người đã thùy mị nết na. Lại thêm nàng là người có tư dung tốt đẹp. Nên tôi xin mẹ trăm lạng bac xin cưới nàng về làm vợ. Tôi từ lâu do được cha mẹ nuông chiều, lại sống trong phú quý nên tính tình có phần kiêu hãnh, lại thêm hay đa nghi người khác. Hiểu được tính tôi, nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì giặc Chiêm Thành quấy nhiễu biên cương. Triều đình bắt nhiều lính tráng đầu quân. Tôi tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lo sợ tôi gặp hiểm nguy nơi xa trường, không người thừa tự tông phả, mẹ tôi lo láng vô cùng. Nhiều lần lo lót tiền bạc nhưng cũng không thể miễn được. Ngày ra đi đất trời u ám. Xóm làng cũng ngậm ngùi đến tiễn đưa đứng kín cả sân nhà. Mẹ tôi ngồi trên phản lớn, nước mắt lưng tròng dặn dò tôi hết sức chu đáo: – Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp. Nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng. Biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh. Đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được. Tôi cũng chẳng tham gì công trạng. Từ lâu chỉ muốn sống yên thân, bó buộc nơi thôn dã. Công danh sự nghiệp của người làm trai tuy có quan trọng nhưng phụng dưỡng mẹ già chu toàn vẹn tất. Trọn đời chỉ mong thực hiện đạo hiếu với mẹ. Nắm lấy tay mẹ, tôi quỳ xuống lạy tạ vâng lời, hứa sẽ trở về bình an. Mẹ tôi cũng yên tâm phần nào. Vũ Nương đứng cạnh cũng rót ly rượu từ biệt thiết tha: – Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ. Chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công. Lời tâu công lớn phá giặc đã chầy. Kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét. Ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về. Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, chén rượu tống tiễn tay đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu. Ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Trống hội quân vang lên giục giã như cào xé trong lòng. Dù hết sức điềm tĩnh nhưng tôi cũng không thể cầm được dòng nước mát đang lăn chảy. Ra đi chuyến này muôn trùng cách trở, chưa biết ngày về mà nàng lại đang có mang con nhỏ. Lại thêm mẹ già tuổi đã xế chiều, sức không còn khỏe nhỡ có mệnh hệ gì thì biết làm sao. Tôi suy nghĩ rất nhiều nhưng quân tình gấp gáp đành gác lại riêng tư lên đường cho kịp ngày giờ. Thoáng một cái, gót ngựa đã đến nơi xa. Trong lại chỉ còn trong thấy bóng quê nhà trong mịt mờ khói bụi. Từ đậy, chiến trận ác liệt nên tin tức quê nhà cũng bặt vô âm tính. Hai năm đằng đẵng trôi qua, cuối cùng giặc dữ cũng quy hàng. Cõi biên thùy lại yên lặng sóng gió. Tôi trở về sau bao năm tháng ly biệt. Hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Nhìn đứa con thơ ngơ ngác lần đầu gặp cha toi vô cùng xúc động. Lại thêm mẹ già cùng kiệt đợi con về mà không thấy đã sớm lìa đời, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều lần tự trách mình bất hiếu đã không thể làm tròn bổn phận của người con. Mẹ tôi trước lúc lìa khỏi trần gian đã không được nhìn thấy đứa con trai duy nhất. Tôi cũng không được thắp nén hương tiễn đưa vong linh người về suối vàng. Sáng hôm sau, tôi bế con trai ra viếng mộ mẹ, trong lòng trĩu nặng ưu tư. Lúc thắp hương tưởng niệm, con trai tôi cứ quấy khóc không chịu ở lại, cứ nằng nặc đòi về. Tôi nhẹ nhàng dỗ dành: – Con nín đi, đừng khóc! Cha về bà đã mất, lòng cha đã buồn khổ lắm rồi! Con đừng khóc thêm nữa! Nào ngờ, con tôi buộc miệng ngây thơ khiến tôi không khỏi sửng sốt: – Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít. Tính tôi hay hoài nghi, lại rất hay ghen, từ trước vốn đã không nặng lòng tin tưởng vợ tôi, nên khi nghe câu nói con trẻ khiến lòng ghen nỗi dậy nhấm chìm cả lí trí: – Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Vin vào lời con nói, tôi đinh ninh cho rằng Vũ Nương ở nhà đã không biết giữ gìn trinh tiết, dan díu với gian tình, bôi nhọ gia phong, làm nhục gia thế. Trở về nhà, tôi nặng lời mắng nhiếc thậm tệ, đánh đập cho bỏ tức. Nàng hết lời minh giải, gợi nhắc tình xưa, than lời ai oán. Nàng thề đã giữ trọn tiết hạnh khả phong chẳng khi nào sai trái. Hỏi có làm sao, tôi vẫn không nói. Hàng xóm cảm thương đến can ngan, minh chứng tôi cũng không nghe. Giận qua mất khôn, tôi đã đuổi nàng đi, từ nay đoạn tuyệt, không thèm nhìn nhận nữa. Quá tuyệt vọng, nàng thốt lời đâu đớn: – Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa. Tôi chỉ nghĩ nàng sẽ đi đâu đó dăm ba ngày, đợi tôi hồi tỉnh sẽ trở về biện minh, oan giải. Nào ngờ, nàng trong lúc bế tắc, lại bị chính chồng mình phủ nhận đã trầm mình xuống sông xanh tận tuyệt, kết liễu cuộc đời trong phẫn uất. Tôi tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương. Tôi vội tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Khi Vũ Nương mất ròi, tôi đêm đêm ôm ấp con trẻ thay mẹ. Đứa con không còn mẹ, buồn tủi mà khóc suốt đêm thâu. Tôi phải bế lên dỗ dành. Bất ngờ, con tôi chỉ lên cái bóng của tôi trên tường mà thốt lên rằng: – Cha Đản lại đến rồi! Lúc này tôi mới hoảng hồn nhận ra. Thì ra khi tôi đi vắng, Vũ Nương thường chỉ lên cái bóng của mình trên tường nói rằng là cha đó để chơi đùa cùng con. Nàng muốn làm con bớt nỗi trống vắng bóng hình người cha. Tôi vô cùng ân hận, bế con đi khắp làng trên xóm dưới tỏ bày sự tình và xin mọi người tha thứ. Ai cũng ngùi ngùi cảm động. Có người còn khóc thương thảm thiết. Họ kể tôi nghe, những ngày tôi ở ngoài mặt trận, Vũ Nương ở nhà tuy hết sức đảm đang, khổ nhọc chăm con nhỏ. nàng còn tận tâm phụng dưỡng mẹ già chu đáo nhưng chưa lúc nào than vãn điều gì. Nàng một mình cam chịu, lầm lũi sớm hôm, thay tôi lo chu toàn mọi việc. Mẹ tôi vô cùng cảm động, dù đã gắn gượng đợi tôi về nhưng sức cùng lục kiệt, không thể đợi chờ được thêm. Trước lúc ra đi còn gửi lời dặn dò tha thiết, ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bà còn cầu mong điều may mắn, an lành đến với nàng. Trời ơi! Chỉ vì nghe lời nói vu vơ của con trẻ mà tôi đã hại chết người vợ hiền đức, thủy chung. Chỉ vì sự ngu ngốc, mê muội của tôi mà tôi đã phụ lòng nàng, phủ nhận công ơn của nàng. Mẹ ơi! Con là đứa con bất hiếu, đã phụ lòng mong mỏi của mẹ. Ơi Vũ Nương! Kiếp này nàng đến với ta bằng tấm lòng trinh bạch. Chỉ vì lòng ghen quá độ mà ta đã nghi oan cho nàng, ích kỉ đến đê tiện, phụ tình khiến nàng phải chết oan uổng. Đêm khuya vắng, ly rượu nhạt nhòa, nước mắt lưng tròng. Nghĩ đến chuyện xưa mà lòng nặng trĩu như Thái Sơn, ai oán hơn trăm vạn nỗi buồn thảm. Oan nghiệp ấy dù vô tình hay cố ý cũng không thể nào tha thứ được. Tôi không mong muốn điều gì hơn là Vũ Nương sẽ rời khỏi cung nước, trở về cùng chồng, cùng con nhỏ để con thơ có mẹ, mà tôi còn có cơ hội để đáp đền công đức của nàng. Tôi đã lập đàn giải oan cho vợ đúng như lời Phan Lang đã dặn dò. Lại còn bày biện lễ nghi sẵn sàng đón rước Vũ Nương trở về. Hôm ấy, người trong làng cũng cùng ra xem hết sức đông đảo. Bỗng nhiên trời đất tối sầm lại, sương khói không biết từ đâu tràn phủ khắp mặt sông nước. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng. Theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc thuyền nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông. Đoàn thuyền lúc ẩn lúc hiện trong sương khói. Tôi vô cùng mùng rỡ, liền với gọi, van xin nàng tha thứ: – Ta đã biết mình sai rồi, hãy tha thứ cho ta. Nàng hãy vì tình xưa mà trở về với con đi. Vũ Nương vẫn ở giữa dòng mà nói với vào, giọng vang vọng như lời gió thổi mây bay: – Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa. Kết bài: Tôi có gọi mãi nhưng nàng không nghe nữa. Đoàn thuyền dần ra xa rồi biến mất. Mặt sông hiện ra trơ trọi. Tất cả đã không còn gì nữa. Người trong làng cũng bỏ về hết, mặc tôi một mình than khóc không nguôi. Tôi không trách nàng, chỉ trách mình phụ bạc, ăn ở bất nghĩa, bất tín, vô tình vô cảm. Nàng sẽ tìm thấy sự bình yên nơi cung nước thẳm, không bao giờ trở về trần gian nữa. Tôi mãi mãi mất đi một người vợ thủy chung. Đây là hậu quả xứng đáng dành cho kẻ bạc tình vô tâm như tôi.
Bài làm 2 Tôi sinh ra trong gia đình khá giả ở Nam Xương. Đã từng, tôi có một gia đình hạnh phúc nhưng chính tôi đã phá vỡ sự hạnh phúc ấy. Nói đến đây, chắc hẳn mọi người đã hình dung ra tôi là ai rồi nhỉ ? Tôi chính là Trương Sinh, và tôi sẽ kể lại câu chuyện của gia đình tôi cho mọi người nghe nhé ! Vì sinh ra trong một gia đình khá giả nên tôi chẳng lo lắng về việc học nên khi trưởng thành tôi sống dựa vào nếp gia đình. Lúc bấy giờ, tôi nghe nói trong làng có một người con gái đẹp người, đẹp nết, tính đã thùy mị, nết na lại them tư dung tốt đẹp nên được mọi người yêu mến, nàng ấy tên là Vũ Thị Thiết, mọi người trong làng thường gọi là Vũ Nương. Trong một lần dạo chơi, tôi đã gặp được nàng và đem lòng thương nhớ nàng bèn về xin mẹ đem trăm lượng vàng cưới về. Khi cưới được nàng về làm vợ tôi rất vui sướng vì tôi đã có một người vợ hiền và mẹ tôi có được một con dâu thảo. Biết tôi có tính đa nghi, phòng ngừa quá sức nên nàng rất giữ gìn khuôn phép nên chúng tôi chung sống với nhau rất hạnh phúc và sắp sửa đóng đứa con đầu tiên. Cuộc sống hạnh phúc của chúng tôi không được bao lâu thì giặc Chiêm chiếm thành,triều đình bắt rất nhiều trai tráng khỏe mạnh đi lính và tôi cũng phải đi. Ngày ra trận mẹ tôi ôn tồn bảo : “ Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối, con ráng giữ mình, gặp khó nên lui lường sức mà tiến. quan cao tước lớn nhường cho người ta, có như thế mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được”. Tôi quỳ xuống vâng lời mẹ dạy. Vợ tôi rót chén rượu đầy nâng bằng hai tay đưa cho tôi và ngậm ngùi bảo rằng : “Chàng ra đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên”. Nàng nói đến đây mọi người đều ứa hai hàng lệ vì cảm động. Riêng tôi, tôi rất cảm động vì những lời nàng nói và một cảm giác ân hận bỗng dưng dâng lên, ân hận vì sao lúc nhỏ không chịu học hành đàng hoàng nên bây giờ phải chia xa mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Tiệc tiễn vừa tàn, tôi dứt áo lên đường. Mọi vật xung quanh cũng như vậy nhưng lòng tôi đã lượm buồn bởi cảnh sinh li. Ngày qua tháng lại, đã thấm thoát một năm, giặc ngoan cố đã chịu trói, đất nước đã trở lại bình yên. Tôi khăn gói trở về, trong lòng vô cùng hớn hở. Nỗi mong nhớ quá lớn khiến bước chân tôi như đang nhảy múa. Dù đêm đã muộn nhưng tôi không muốn dừng chân. Nếu đi tiếp, đến tầm giữa trưa ngày mai là tôi đã tới nhà. Đúng như dự tính, lúc mặt trời vừa đứng bóng, tôi tôi đã đến nhà. Từ ngoài cổng đã nghe tiếng Vũ Nương hò ru con ngủ. Khi tôi đứng trước cửa, nàng lặng người nhìn tôi xúc động, nghẹn ngào không thể nói nên lời. Nhìn đưa con trai kháu khỉnh đang im ngủ, tôi hạnh phúc tột cùng. Hai năm trời đằng đẵng, biết bao mong đợi, giờ được trong nhìn thấy con yêu nỗi vui sướng trong tôi trào dâng không gì sánh nổi. Tôi rất đau buồn khi nghe tin mẹ giờ đã không thể đợi chờ đến ngày tôi trở về, đau buồn mà đi sớm. Đạo làm con kiếp này đã không thể vẹn tròn, chỉ mong linh hồn mẹ dưới tuyền đài được an nghỉ, đừng lo lắmg gì thêm nữa. Nghỉ ngơi hôm đó, đến sáng sớm hôn hôn, tôi bế con ra viếng mẹ. Đến mộ, bé Đản quấy khóc, tôi bèn dỗ dành : “Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi”. Nghe tôi nói, bé Đản quả thực không không khóc nữa. Nó ngước nhìn tôi vặn hỏi “Ô hay! Ra ông cũng là cha tôi ư?” Tôi kinh ngạc và gặng hỏi mãi Đản mới giải bày rằng lúc tôi chinh chiến ở ngoài mặt trận, có một người đàn ông thường tới nhà. Mẹ Đản đứng, người ấy cũng đứng. Mẹ Đản ngồi, người ấy cũng ngồi. Người ấy chỉ đến vào buổi tối và không vao giờ bế Đản. Lời nói của con khiến tôi kinh hãi, sững sốt. Trời ơi, lẽ nào lúc tôi vắng nhà, vợ tôi đã gian tình với người khác. Lẽ nào nàng có thể phỉ báng đạo đức, coi thường luân lí mà làm việc bất nghĩa, thấy tiết, bại hoại gia phong như thế được. Vũ Nương là người đoan chính nhưng trẻ con bào biết nói dối. Đã quá rõ ràng và không cần một lời biện bạch nào được thốt ra. Tôi về nhà đánh đập vợ tôi liên miên. Lúc ấy, tôi nghĩ giây phút đoàn viên là giây phút hạnh phúc nhất cuộc đời tôi nhưng không phải vậy ! Người vợ mà tôi một mực yêu thương, người vợ tôi nghĩ là chung thủy, mẫu mực đã “ thất tiết “ . Vợ tôi đã nhiều lần muốn giải thích nhưng ngọn lửa giận trong lòng tôi cứ cháy phừng phực nên tôi đã không cho nàng cơ hội để giải thích. Cả những người hàng xóm thấy vậy cũng qua giải thích cho nàng nhưng tôi vẫn một mực không tin. Tôi một mực đánh đập nàng và những vết thương ấy cứ theo thời gian mà để lại trên làn da của nàng. Sau khi nàng khóc lóc thảm thiết thì nàng đi vào tắm rửa sạch sẽ rồi bỏ đi. Tiếp đến tôi không thấy nàng trở lại nữa. Tuy tôi giận vì nàng thất tiết nhưng tôi cũng động lòng thương xót và khi tôi đang kiếm tìm nàng thì nghe dân làng bảo rằng nàng đã gieo mình xuống sông tự vẫn để chứng minh nàng trong sạch. Một đêm ấy, tôi cố gắng vớt nàng lên để chôn nhưng tìm mãi không được. Một đêm, tôi và con trai ngồi buồn bã trước ngọn đèn dầu, bất chợt đứa con trai thốt lên : “ Cha Đản lại đến kìa “ . rồi chỉ tay vào bóng tôi in trên vách. Lúc ấy tôi chợt hiểu ra tất cả và ân hận vô cùng. Lúc ấy, tôi mới thấu được nỗi oan của vợ tôi. Hóa ra cái bóng ấy nàng đã gửi vào những tram tư, yêu nhớ khôn nguôi khi tôi còn ở chiến trường đồng thời cũng là khát vọng của một người cha dù chỉ là trong tâm trí. Hơn hết, cái bóng đã trơ thành chỗ dựa tinh thần của nàng. Lòng tôi lại đau như cắt khi nghĩ đến ánh mắt tuyệt vọng của nàng khi bị tôi đánh đập. Cảnh còn mà người mất, giá như lúc ấy tôi cho vợ tôi cơ hội để giải thích, giá như tôi chịu tin là nàng chung thủy và giá như nàng không tự vẫn…Mất đi nàng, cuộc đời tôi trở nên u ám, đen tối, tôi sẽ không bao giờ thấy được bóng dáng người vợ của tôi nữa và gia đình của tôi tan vỡ từ ấy,… Vài hôm sau, có chàng trai xưng là Phan Lang đến tìm tôi và kể lại mọi chuyện nhưng tôi không tin. Sau đó anh ta đưa ra chiếc hoa vàng của vợ tôi thì tôi mới tin là sự thật. Phan Lang bảo tôi lập đàn giải oan và tôi làm theo. Quả nhiên, tôi nhìn thấy nàng ấy ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng sông, lúc ấy tôi vội gọi thì tiếng nàng vọng vào “ Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng nhưng thiếp không thể trở về nhân gian nữa ! “ Trong phút chốc, mọi thứ tan biến.Một sự ân hận da diết đã giày vò tôi. Chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã đánh mất người vợ này. Sai lầm của tôi đã vô phương cứu chữa. Mong sao các cặp phu thê có thể tin tưởng lẫn nhau để mang lại cho nhau cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn.
Bài làm 3: Tôi là Trương Sinh. Tôi sẽ kể cho mọi người nghe sai lầm lớn nhất trong cuộc đời tôi , đó là sai lầm tôi làm tôi rất ân hận và mãi mãi không thể nào quên được . Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả ở Nam Xương. Ở làng tôi , có một cô gái tên là Vũ Thị Thiết dung mạo xinh đẹp , tính tình lại thùy mị nết na .Tôi vì mến những tính tốt đó của nàng , bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ . Tôi thì có tính đa nghi phòng ngừa quá mức nên nàng rất giữ gìn khuôn phép, không bao giờ để vợ chồng bất hòa. Chúng tôi sống với nhau rất hòa thuận, hạnh phúc . Nhưng chúng tôi hạnh phúc chưa được bao lâu thì triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm . Tuy tôi là con nhà hào phú nhưng tôi không có học nên tên tôi đành ghi trong sổ lính . Trước khi đi mẹ tôi dặn : ” Nay con phải tạm ra tòng quân , phải biết giữ mình làm trọng , gặp khó nên lui , lường sức mà tiến , đừng nên tham miếng mồi mà mắc vào cạm bẫy ! Có thế thì mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng cho con được ” . Tôi liền quỳ xuống đất và vâng lời mẹ . Vợ tôi thì rót chén rượu đầy tiễn tôi rằng : ” Chàng đi chuyến này , thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu , mặc áo gấm trở về quê cũ , chỉ xin ngày về mang chư. bình yên . Dù có thư tín hàng ngàn , cũng không sợ có cánh hồng bay bổng ” . Nàng nói đến đây , tôi và mọi người đều rơi nước mắt . Tôi đưa mắt nhìn cảnh vật còn như cũ , mà lòng đã nhuộm mối tình muôn dặm , tôi đành từ biệt mọi người để ra trận . Lúc đó , vợ tôi có mang , sau khi xa tôi vừa đầy tuần , thì sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản . Thắm thoát đã nửa năm , mẹ tôi vì nhớ tôi mà đã mất , vợ tôi lo việc ma chay tế lễ , lo liệu cho mẹ tôi như cha mẹ đẻ của nàng ấy . Khi tôi trở về , tôi nghe tin mẹ tôi đã qua đời , không có nỗi đau nào như nỗi đau mất mẹ . Trong lòng tôi lúc ấy hụt hẫng vô cùng . Nhưng tôi cũng hạnh phúc khi đứa con đầu lòng của mình đã bập bẹ biết nói . Khi tôi biết tin mẹ mất , tôi liền bế bé Đản đi thăm mộ . Nhưng khi ra đến đồng , bé Đản không chịu và quấy khóc . Tôi liền dỗ dành : ” Nín đi con , đừng khóc . Cha về , bà đã mất , trong lòng cha buồn khổ lắm rồi ” . Bé Đản ngây thơ nói : ” Ô hay , thế ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói , không giống cha tôi trước kia chỉ nin thin thít ” . Tôi ngạc nhiên gạn hỏi , bé Đản nói : ” Trước đây , thường có một người đàn ông , đêm nào cũng đến , mẹ Đản đi cũng đi , mẹ Đản ngồi cũng ngồi , nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả ” . Tính tôi hay ghen , nghe con nói vậy , tôi liền nghi oan cho vợ là thất tiết . Khi về đến nhà , tôi liền đánh đập và mắng nàng không một chút thương tiếc . Tuy rằng nàng giải thích cho tôi nghe , nhưng tôi vẫn không quan tâm , mặc cho những người hàng xóm can ngăn và giải thích cho vợ tôi nhưng cái đa nghi trong lòng tôi gần như đã khống chế đầu óc tôi . Tôi lúc đó không thể nào tin tưởng vợ mình được . Tôi còn không cho nàng một cơ hội để giải thích , mà còn đánh đập nàng . Những hành động đó đã tổn thương đến tinh thần và thể xác của vợ tôi . Lúc đó đã xế chiều , tôi chỉ thấy vợ tôi ngồi khóc lóc , rồi nàng vào tắm gội chay sạch , và bỏ đi ra khỏi nhà . Một lúc sau , tôi nghe tiếng bà con hàng xóm gọi tôi , nói với tôi rằng vợ tôi đã gieo mình xuống sông mà chết . Tôi tuy giận nàng thất tiết nhưng cũng vì thời gian tôi đi đánh giặc , nàng đã chăm sóc cho mẹ tôi nên cơn giận cũng nguôi bớt phần nào . Một đêm phòng vắng vẻ , tôi ngồi buồn bã , chợt đứa con nói rằng : ” Cha Đản lại đến kìa ” . Tôi liền hỏi bé Đản đâu , nó chỉ bóng chàng ở trên vách rồi nói : ” Đây này ” . Lúc đó tôi mới thất tỉnh ra , thì ra người đàn ông đêm nào cũng đến , mẹ Đản đi cũng đi , mẹ Đản ngồi cũng ngồi , đó chỉ là cái bóng của vợ tôi . Bấy giờ tôi mới tỉnh ngộ , là do tôi quá hồ đồ và vội vàng mà dẫn vợ tôi đến con đường chết . Đã vậy tôi còn làm cho bé Đản không có mẹ . Bây giờ hạnh phúc gia đình của tôi cũng biến mất chỉ vì sự mù quáng của tôi . Một hôm có một chàng trai xưng là Phan Lang ở cùng làng với vợ tôi . Cậu ấy nói với tôi rằng đã gặp vợ tôi và kể cho tôi cái chết oan của nàng . Tôi thì sao có thể tin một chàng trai mới gặp vậy chứ , sau đó anh ta liền rút ra chiếc trâm hoa vàng , thứ tôi đã tặng cho vợ tôi ngày xưa . Giờ đây tôi liền tin những lời Phan Lang nói . Anh ta nói với tôi hãy lập đàn tràng đen ba ngày đem ở bến Hoàng Giang để có thể gặp vợ mình . Quả thật tôi đã gặp vợ mình , nàng đứng trên một cái kiệu hoa giữa dòng , lúc ẩn lúc hiện . Tôi liền gọi nàng , nàng vẫn giữa dòng và nói vọng vào : ” Thiếp cảm ơn đức của Phi Linh , đã thề sống chết cũng không bỏ . Đa tạ tình chàng , thiếp chẳng trở về trần gian được nữa ” . Nói xong bóng nàng mờ dần và biến mất . Bây giờ tôi không thể nào gặp nàng được nữa , trong lòng tôi hối hận , khóc không thành tiếng . Tội của tôi thật đáng chết gấp vạn lần ! Dù gì mọi chuyện cũng đã qua , nhưng trong lòng tôi không thể nào quên được cái khoảnh khắc ấy . Tôi chỉ muốn khuyên mọi người đừng có mà vội vàng hồ đồ như tôi , đến lúc xảy ra chuyện thì hối hận không kịp thì đã quá muộn rồi . ôi vội gọi thật lớn nhưng nàng vẫn ở giữa sông mà nói vọng vào: – Thiếp cảm ơn, ơn của Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về lại được nhân gian nữa. Trong phúc chốc cảnh tượng tan biến. Tôi vô cùng ân hận, chỉ vì một cơn ghen mù quáng mà tôi đã phá nát hạnh phúc gia đình, mãi mãi không cứu vãn được nữa. Tôi mong mọi người sẽ nhìn vào tôi và rút ra bài học cho bản thân mình.