Hãy kể câu chuyện về việc làm thể hiện nếp sống văn minh ở nơi công cộng – Bài làm 1 Bài làm: Trưa nay đi học về, vì bụng đói nên tôi cố đi nhanh hơn. Nhưng phía trước, một dòng người quá đông đã cản đường, lại, nghe có tiếng kèn nữa. Thì ra là một đám tang. Chiếc xe tang được chạm trổ thành hình chiếc thuyền rồng nhiều màu rất tinh vi. Hai bên có mấy người trong đội táng mặc đồ đen viền tráng hộ tống. Theo sau là nhiều người đầu bịt khăn, họ vừa đi vừa sụt sùi khóc. Chắc họ đau khổ lắm, vì phải vĩnh viễn chia tay một người yêu quý nhất trên đời của mình. Xe tang đến đâu, ô tô, xe đạp lớn nhỏ đều dạt ra đến đó để nhường lối. Người đi hai bên đường cũng thế. Có người dừng lại lột nón xuống, kính cẩn chào người quá cố đang đi qua và chia sẻ nỗi buồn với gia đình bất hạnh kia. Thấy thế, tôi và mấy bạn học cùng trường cũng bắt chước lột nón, đứng nghiêm. Một ông cụ nhìn chúng tôi gật đầu: – Học sinh trường nào mà ngoan ngoãn và lịch sự quá. Ông cụ vừa dứt lời, bỗng tôi nghe có tiếng xe rú ga thật lớn, tiếng kèn “chéo chéo” như tiếng đạn bay liên tục. Hai anh thanh niên áo phanh ngực, râu tóc lởm chởm đang chở nhau trên chiếc mô tô bóng lộn, lạng lách giữa đám đông cố vượt qua. Những người đi theo xe tang hốt hoảng nhảy vào lề, lấn vào nhau suýt té. Chiếc mô tô chạy khỏi rồi, mọi người mới hoàn hồn nhìn theo lắc đầu. Về đến nhà, tôi cứ suy nghĩ mãi. Người lịch sự phải biết nhường lối trước cụ già, em bé, người tật nguyền, người có con mọn hay trước đám cưới, đám tang. Tại sao hai anh thanh niên kia lại nông nổi như thế! Hay là hai anh đó giàu có mà thiếu học chăng?
Hãy kể câu chuyện về việc làm thể hiện nếp sống văn minh ở nơi công cộng – Bài làm 2 Bài làm: Sáng thứ năm nào cũng thế, tôi và chị tôi thường đến phòng đọc sách thuộc Nhà Văn hoá trung tâm đế xem sách. Nơi ấy vừa yên tĩnh lại vừa có nhiều sách hay lạ. Một lần chúng tõi đến như thường lệ. Cả một gian phòng lớn lặng trang. Bên ngoài, ánh sáng toả vào xuyên qua các ô kính màu xanh nhạt nón rất dịu mắt. Nơi các dãy bàn kê ngay ngắn trước các kệ sách dài, khá đông khách ngồi. Đa số là người lớn, các anh chị sinh viên và học sinh cấp hai, ba. Chi lé tẻ năm ba hoc sinh tiểu học như tôi. Sau khi gặp có quản thủ thư viện mượn sách, hai chị em cũng đến bàn ngồi đọc. Gặp chỗ hấp dẫn, tôi liền gọi chị tôi: – Nè chị ơi, lại đây. Đoạn này hay ghê! Chị tôi “suyt” một cái ra hiệu cho tôi nói khẽ. Tôi hiểu ngay, chẳng dám hó hé, vì tôi dư biết chị tõi lúc nào cũng có lý và lịch sự. Mọi người đều lặng lẽ đọc sách, có người còn lấy giấy ra viết viết ghi ghi. Lát sau, bỗng đâu nghe tiếng oang oang, tôi nhìn lại thấy hai anh thanh niên mặc áo phanh ngực, để râu lởm chởm bước vào: – Ê, vào đáy ngồi trú nắng một chút. Đợi tụi nó tới mình nhập bọn đi chơi. – Thôi chỗ này thiên hạ đọc sách. Buồn chết. – Mặc kệ. Ai đọc thi đọc, mình tán dóc cho vui. Thế là hai anh đó hết chuyện này đến chuyện khác, bất chấp mọi người xung quanh. Có mấy chú, mấy bác lâu lâu liếc nhìn hai anh với ánh mắt khó chịu. Lúc ra về chị tôi mới khều vai tôi mà dặn rằng: “Nơi công cộng như phòng đọc sách, chúng ta phải giữ yên lặng. Có thế mới là người lịch sự. Em đừng bắt chước hai anh hồi nãy nhé!”.
Hãy kể câu chuyện về nghĩa đồng bào như câu Lá lành đùm lá rách – Văn mẫu lớp 5 Bài làm: Sáng nay, nhân nghe thầy giảng về ý nghĩa câu “Lá lành đùm lá rách" làm em chợt nhớ lại một bà lão, cứ thỉnh thoảng vài ba tuần, có ghé nhà em một lần. Bà cũng có mái tóc bạc phơ, mặc bộ đồ đen già lọm khọm, giọng nói và gương mặt hiền từ, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Sao bà giống ngoại em hồi còn sống quá! Ban đầu, em không nghĩ bà là người ãn xin. Vì bà cũng có nét sạch sẽ như bao cụ già bình thường khác. Mỗi lần bà lão đến đều được ba má em niềm nở tiếp đón và biếu nhưng thứ bà cần. Một lần, đang bữa cơm, bà bước vào, ba má ern khẩn khoản mời nhưng bà một mực từ chối: – Con có lòng như vậy, tôi cám ơn lắm. Già cả rồi đảu có ăn uống được nhiều, nên không thấy đói. Cho tôi ngồi nghỉ một lát. Em vội vàng đi rót một tách trà nóng mang lên. Sau khi mẹ em xúc gạo trút vào giỏ cho bà lão, ba em còn nháy mắt ra hiệu. Mẹ em hiểu ý, mở tủ lấy tiền đem lại và nói: – Bà nhận chút ít để mua trầu. Bà lão cầm tờ giấy bạc trong tay run run, nhìn mẹ em mà đôi mắt rưng rưng ngấn lệ vì cảm động. – Tôi để dành tiền này, khi bệnh, uống thuốc. Tiền lớn quá, ít có ai cho tôi thế này. Thật ra thì tờ giấy bạc có bao nhiêu, nhưng nghe bà nói thế, lòng em nổi lên một niềm thương cảm. Tờ giấy bạc ấy, sở dĩ lớn vì đối với bà quá nghèo. Và em cũng chẳng hiểu sao, có nhiều người giàu sang, nhà cửa lộng lẫy, ăn xài phung phí, mà gặp người nghèo khổ họ lại dửng dưng hoặc là họ ném ra vài đồng tiền lẻ như một cách xua đuổi cho kẻ ăn xin sớm đi khuất mắt. Qua lời hỏi thăm giữa ba má em và bà lão, em mới biêt bã đã ngoài tám mươi tuổi rồi, chẳng có con cái gì, chỉ một mình tá túc nơi nhà đứa cháu, cũng nghèo nàn thiếu ăn. Đôi lúc tủi thân, tủi phận, bà đành lang thang như thế. Lúc bà bước ra, ba em còn căn dặn “có dịp qua đây, mời bà ghé nhà con chơi. Đừng ngại gì hết”. Nhưng lâu lắm rồi, gần cả năm nay, em không thấy bà lão ấy đến nữa… Đôi lúc rảnh rỗi, ba em có nhắc chuyện bà lão và vẫn thường khuyên em “một miếng khi đói bằng một gói khi no” đồng tiền mình giúp người nghèo khó, già cả, cô đơn bệnh tật đáng là bao, nhưng đã mang lại cho họ niềm hạnh phúc trong lúc thắt ngặt. Niềm hạnh phúc ấy của họ cũng chính là niềm vui thanh thản của lòng ta, con ạ”.