Phân tích bài ca dao “Khăn thương nhớ ai,...” - Bài làm 1 Bài làm: Bài thơ này được viết theo thể bốn chữ và được kết thúc bằng hai câu lục bát phân tích bài ca dao khăn thương nhớ ai là phân tích nhân vật trữ tình trong bài ca dao này là cô gái đang sống trong tâm trạng thương nhớ người yêu cùng với lo phiền ẩn chứ bên trong cũng xuất phát từ niềm thương nhớ ấy. Khi nói đến thương nhớ thì đây là thứ tình cảm khó hình dung và nhất là trong tình yêu. Vì vậy nên ở bài ca dao này nỗi nhớ đó lại được diễn tả một cách tinh tế, cụ thể nhất nhờ vào cách sử dụng hình ảnh tượng trưng mang tính nghệ thuật cao. Tác giả của bài ca dao khăn thương nhớ ai này đã mượn chiếc khăn, chiếc đèn đã được nhân hoá và con mắt là hoán dụ để diễn tả tâm trạng của nhân vật phụ nữ trữ tình. Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất. Khăn thương nhớ ai, Khăn vắt lên vai. Khăn thương nhớ ai, Khăn chùi nước mắt. Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề... Sáu câu thơ này có cấu trúc theo lối vắt dòng láy lại sáu lần từ khăn ở ngay vị trí đầu câu và láy thêm ba lần nữa câu hỏi thương nhớ ai thể hiện nỗi nhớ của nhân vật rất triền miên và da diết. Mỗi một lần hỏi này lại là một nỗi nhớ trào dâng, sâu sắc hơn. Đây chính là nỗi nhớ có không gian trải ra trên nhiều chiều như khăn rơi xuống đất, khăn vắt trên vai, khăn chùi nước mắt chính là biểu hiện bên trong suy nghĩ và hành động khiến cho cô gái trở nên bồn chồn và khắc khoải trái tim yếu mềm rơi nước mắt. Đối với sau câu thơ hỏi về khăn này bao gồm 24 chữ thì cũng có đến 16 thanh bằng mà hầu hết là thanh không, điều này gợi nên nỗi thương nhớ đến người yêu đến cháy lòng của nhân vật. Nhưng cô vẫn phải kìm nén dòng cảm xúc đang dâng trào trong tâm hồn của mình. Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và trải dài theo thời gian đằng đẵng. Hai câu thơ tiếp theo Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Đã cho chúng ta biết rằng chừng nào ngọn lửa tình yêu của người con gái này vẫn cháy sáng thì ngọn đèn kia vẫn sẽ sáng thâu đem. Yếu tố đèn không tắt hay chính con người đang thao thức thâu đem trong nỗi nhớ này, nếu như ở sau câu thơ trên chiếc khăn đã biết giải bày thì ở những câu thơ này ngọn đèn cũng biết thổ lộ yêu thương. Tuy nhiên đến đây dù kín đáo, gợi cảm đến bao nhiêu thì những chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là những hình ảnh thay thế cho nỗi nhớ để gửi gắm nỗi niềm tâm sự của mình. Cuối cùng không thể kiềm lòng thêm được nữa cô gái đã hỏi trực tiếp với chính mình: Mắt thương nhớ ai, Mắt ngủ không yên. tiếp đến hai câu thơ sau này đã thể hiện lên nỗi nhớ mỗi khi nhắm mắt lại hình ảnh người ấy lại hiện ra không sao ngủ được. Với câu thơ bên trên thì đèn không tắt còn ở đây là Mắt ngủ không yên, hình tượng thơ thật hợp lý và nhất quán tự nhiên như một tình yêu và niềm thương nỗi nhớ chân thực của một cô gái. Nếu như ở những câu thơ trên nỗi nhớ vẫn còn che giấu bởi những hình ảnh có tính chất tượng trưng thì đến đây trái tim đã tự thốt lên lời thương nhớ. Cô gái mang tâm trạng lo phiền cũng xuất phát từ thương nhớ, cô lo vì một nỗi không yên một bề: Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề... Một nỗi và một bề hoá thành rất nhiều vương vấn. Cô gái lo cho chàng trai hay lo cho chính mình rằng chàng trai có yêu thương mình như mình đã thương yêu chàng không? Nỗi nhớ này chính là tâm trạng phổ biến nhiều nhất ở những cô gái đang yêu. Trong bài ca dao này nỗi nhớ được nói đến trong 10 câu thơ 4 chữ và chỉ có lời hỏi mà không có câu trả lời. Nhưng câu trả lời gián tiếp cũng được khẳng định trong năm điệp khúc “Khăn thương nhớ ai” là niềm khắc khoải để rồi cuối cùng trào dâng thành một nỗi niềm âu lo thực sự cho hạnh phúc của lứa đôi. Tình yêu cho dù có trong sáng hay mãnh liệt đến mấy thì cũng gắn bó với đời thường mà đời thường thì nhiều dâu bể. Vì vậy mà cô gái nhớ thương người yêu, thương cho duyên phận hai đứa không yên một bề. Chúng ta phải đặt bài ca dao này với cuộc sống của người phụ nữ xưa và bên trong hệ thống của những bài ca than thân về hôn nhân, gia đình thì chúng ta mới biết hết được ý nghĩa của hai câu kết. Hạnh phúc đôi lứa vẫn thường hay bấp bênh vì tình yêu tha thiết nhiều khi không dẫn đến được với hôn nhân. Cho dù vậy thì bài ca dao khăn thương nhớ ai này cũng hết sức ý nghĩa, là tiếng hát của một trái tim khao khát yêu thương. Cũng chính vì điều đó mà nỗi nhớ này không hề bị luỵ mà vẫn có một nét đẹp trong tâm hồn đáng quý nhất của các cô gái Việt làng quê xưa.
Phân tích bài ca dao “Khăn thương nhớ ai,...” - Bài làm 2 Bài làm: Khăn thương nhớ ai, Khăn chùi nước mắt. Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Mắt thương nhớ ai, Mắt không ngủ yên. Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề... Bài ca nằm trong hệ thống ca dao về đề tài thương nhớ, một cung bậc trong ca dao tình yêu của người bình dân Việt Nam. Bài ca diễn tả nỗi nhớ niềm thương của một cô gái. Nhớ thương da diết, nhớ đến thao thức, cồn cào gan ruột mà không dễ bộc lộ. Cô phải hỏi khăn, hỏi đèn, hỏi cả mắt mình. Những câu hỏi không có câu trả lời càng nén chặt nỗi thương nhớ, để cuối cùng trào ra trong nỗi lo âu cho hạnh phúc. Giọng thơ sâu lắng, dồn dập gợi nhiều cảm xúc. Đêm qua em những lo phiền Lo vì một nỗi không yên một bề Mở đầu, chiếc khăn được hỏi đến đầu tiên và được hỏi nhiều nhất: Khăn thương nhớ ai, Khăn chùi nước mắt Chiếc khăn thường là vật trao duyên, vật kỷ niệm gơi nhớ người yêu. Sáu câu thơ được cấu trúc theo lối vắt dòng, láy lại 6 lần từ “khăn” ở vị trí đầu các câu thơ và láy lại 3 lần câu “khăn thương nhớ ai” như một điệp khúc bất tận, thể hiện nỗi nhớ triền miên, da diết. Dường như mỗi lần hỏi là nỗi nhớ lại trào dâng thêm. Cái khăn, tự nó không biết “thương nhớ”, không biết tự “rơi xuống”, “vắt lên”, “chùi nước mắt”, nhưng những hình ảnh vận động mang cảm xúc người đã hiện lên hình ảnh con người với tâm trạng ngổn ngang niềm thương nhớ cùng nỗi lo âu. Nhớ đến ngơ ngẩn, nỗi nhớ toả theo chiều hướng của không gian (khăn rơi xuống đất rồi lại khăn vắt lên vai), cuối cùng thu lại trong cảnh khóc thầm (“khăn chùi nước mắt”). Nỗi nhớ trong 6 câu lan toả vào không gian, đến 4 câu tiếp lại xuyên suốt theo thời gian. Nỗi nhớ ban ngày kéo dài sang cả ban đêm: Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt Vẫn là điệp khúc “thương nhớ ai”, nhưng nỗi nhớ đã chuyển từ “khăn” sang “đèn”. Hình ảnh ngọn đèn gợi ra đêm khuya võ canh tàn, và cái đốm lửa đang cháy kia phải chăng là hình ảnh của nỗi nhớ cháy rực trong lòng cô gái? Ngọn đèn mãi không chịu tắt, nỗi nhớ cứ da diết khôn nguôi. Cũng như chiếc khăn, ngọn đèn đã giúp cô gái thổ lộ nỗi lòng. Nhưng dù gợi cảm bao nhiêu, thì chiếc khăn và ngọn đèn cũng chỉ là cách nói gián tiếp theo lối biểu tượng, nhân hoá. Nỗi lòng của cô gái buộc phải bật ra trong cách nói trực tiếp: Mắt thương nhớ ai, Mắt không ngủ yên Thương nhớ đến không ngủ được, cứ trằn trọc thao thức là cách thức biểu lộ quen thuộc trong ca dao: Đêm nằm lưng chẳng tới giường, Trông cho mau sáng ra đường gặp anh Tuy nhiên, cũng là một tâm trạng ấy, nhưng trong bài ca này, hình ảnh đôi mắt có sức gợi cảm sâu xa hơn nhiều. “Mắt ngủ không yên” tạo nên một đối xứng rất đẹp với “đèn không tắt” ở trên, gợi lên một khung cảnh rất thực: cô gái giữa đêm khuya một mình đối diện với ngọn đèn mà nhớ người thương. Vì “mắt ngủ không yên” nên “đèn không tắt”. Nói đèn cũng chỉ là nói người mà thôi. Ngọn đèn soi chiếu vào đôi mắt, càng thấy nỗi nhớ thương vời vợi không nguôi. Mười câu thơ là 5 câu hỏi không có lời đáp. Điệp khúc “thương nhớ ai” trở đi trở lại như xoáy vào một nỗi niềm khắc khoải, da diết. Những lần “thương nhớ” và 5 lần từ “ai” xuất hiện. Bản thân từ “ai” mang ý phiếm chỉ, gợi lên một nỗi nhớ thương sâu thẳm mênh mông, không giới hạn. Từ “ai” không xác định cụ thể đối tượng, nhưng người nghe hoàn toàn hiểu được “ai” ấy là ai. Hỏi không có trả lời, nhưng thực câu trả lời đã nằm trong giọng điệu khắc khoải, da diết kia. Không cần nói rõ, nhưng nỗi nhớ người yêu đã được bộc lộ một cách kín đáo mà gợi cảm, sâu sắc, mãnh liệt. Cách gieo vần của bài ca cũng rất đặc sắc. Vần chân và vần lưng xen kẽ nhau (ai-ai, mắt-tắt), vần bằng vần trắc luân phiên, tất cả tạo nên một âm điệu luyến láy liên hoàn khiến cho nỗi nhớ thương của cô gái vừa nén lại, vừa như kéo dài ra mênh mông vô tận theo cả không gian và thời gian. Tưởng chừng nỗi nhớ ấy sẽ không có kết thúc... Nhưng bài ca phải có điểm dừng. Khi cô giá không hỏi nữa thì niềm thương nhớ trào ra thành nỗi lo phiền: Đêm qua em những lo phiền, Lo vì một nỗi không yên một bề... Từ nhịp thơ 4 chữ dồn dập, liên tiếp, lời ca chuyển sang nhịp thơ lục bát nhẹ nhàng hơn nhưng cũng xao xuyến hơn, giải bày niềm lo ấy của cô gái trước hạnh phúc lứa đôi. Không phải ngẫu nhiên mà chữ “lo” được nhắc đến hai lần. Nhớ thương người yêu và lo lắng cho duyên phận của mình “không yên một bề”, tâm trạng của cô gái mang ý nghĩa phổ biến cho người phụ nữ trong cuộc đời xưa: yêu tha thiết nhưng luôn lo sợ cho hạnh phúc bấp bênh. Bài ca khá tiêu biểu cho nghệ thuật ca dao với sự lặp lại trong cách diễn tả tâm trạng, cách dùng những hình ảnh biểu tượng, lối nhân hoá để tăng thêm sức sống cho hình ảnh, cách gieo vần linh hoạt, cách cấu tạo truyền thống kết hợp những câu thơ bốn chữ với hai câu lục bát cuối cùng... Qua nỗi thương nhớ và niềm lo âu được diễn tả trong bài ca, ta nhận ra tiếng hát yêu thương và khao khát yêu thương của người bình dân xưa.