Phân tích bài thơ “Chiều tối” (Mộ) của Hồ Chí Minh

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    • Mở bài:
    Tập thơ Nhật kí trong tù được viết trong khoảng thời gian Bác bị giam cầm ở nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, từ 8/1942 – 9/1943. Trong 13 tháng bị giam cầm, Bác đã phải trải qua nhiều lần chuyển lao. Nhiều lần, Người phải bước đi trong đêm tối mưa gió, giá rét và phải chịu đựng bao cảnh ốm đau,… Chính vì thế mà trong tập thơ Nhật kí trong tù có cả một mảng thơ viết về cảnh đi đường, chuyển lao. Bài thơ Chiều tối là bài thơ tiêu biểu cho chủ đề ấy.
    • Thân bài:
    Bài thơ Chiều tối được Bác sáng tác vào cuối mùa thu (1942), trên con đường từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Đó là vào một buổi chiều tối, dù đã phải trải qua một ngày vất vả nhưng Bác vẫn tiếp tục bị bọn lính áp giải trên đường. Đêm đến, Bác thường phải nghỉ trong nhà giam chật hẹp, bẩn thỉu và tư thế khổ ải, tay bị xích, chân bị cùm.

    Nói cách khác, ở thời điểm chiều tối ấy, những đầy đọa ban ngày vẫn chưa qua và những đầy đọa ban đêm sắp đến. Vậy mà ở đây, trong bài thơ của Bác tuyệt nhiên không có một chữ, một chi tiết nào nói về cảnh tù đày. Ở đó chỉ có một thiên nhiên bát ngát, cao trong, thanh bình êm ả; chỉ có một hồn thơ thư thái, ung dung, say mê hướng về sự sống, hướng về phía ánh sáng và hạnh phúc trong lao động của con người.

    Trước hết, cảnh chiều tối hiện ra qua những nét vẽ chấm phá bằng bút pháp cổ điển của Đường thi: một cánh chim mỏi mệt bay về rừng, một chòm mây đơn độc trôi nhẹ về phía trời xa. Trong khung cảnh ấy, tuy không miêu tả âm thanh mà nghe thật vắng vẻ quạnh hiu, tuy không có màu sắc mà thấy thật thâm u, huyền bí:

    “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
    Cô vân mạn mạn độ thiên không”

    (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
    Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

    Hình ảnh cánh chim, chòm mây rất quen thuộc trong thơ ca cổ điển khi viết về cảnh hoàng hôn, chiều tà. Mặc dù, lúc viết bài thơ này, Bác rất mệt mỏi sau khi trải qua một chặng đường dài, chưa kịp nghỉ ngơi. Thế nhưng cảm xúc của Bác vẫn hết sức thanh thản, ung dung và đôi mắt của Người vẫn hướng lên bầu trời cao, vẫn dõi theo cánh chim và chòm mây trên bầu trời xa. Trong câu thơ ít nhiều cũng thể hiện tâm trạng nỗi buồn của Bác: cánh chim, chòm mây hướng về nơi trú ngụ còn con người không biết đi đâu về đâu!

    Trong thơ ca phương Đông, cánh chim thường là biểu tượng của sự cô đơn, lạc lõng. Cánh chim bay trong bóng chiều bất tận càng làm tăng thêm nỗi buồn vũ trụ miên man bất tận. Thôi Hộ thấy lạc lõng cùng cánh chim trời bay vào vô định:

    “Lạc hà dữ cô lộ tề phi
    Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”

    (Thôi Hộ)

    (Cánh chim bay cùng ráng chiều
    Mặt nước hồ thu cùng với trời cao một màu)

    Nguyễn Du nhìn thấy sự mệt mỏi trong cánh chim trong buổi chiều rệu rã:

    “Chim hôm thoi thóp về rừng”

    (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

    Sau này, trong bài thơ Tràng Giang, Huy Cận cũng viết:

    “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”

    Như vậy, cánh chim chiều vừa mang ý nghĩa không gian vừa mang ý nghĩa thời gian. Trong thơ của Bác cũng vậy chỉ khác đây không chỉ đơn thuần là “cánh chim bay” mà là “cánh chim mỏi”. Bác nhìn theo cánh chim bay về rừng không chỉ với cái nhìn thường thức đơn thuần mà còn gửi vào đó sự lưu luyến trìu mến của một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống.

    Dường như qua cánh chim nhỏ nhoi ấy, Bác đã cảm nhận ở đó có cái gì gần gũi tương đồng. Suốt một ngày bay đi kiếm ăn vất vả, cánh chim trở về rừng tìm cây trú ngụ qua đêm để sáng mai tiếp tục nhịp tuần hoàn của cuộc sống. Và người tù cũng vậy, cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả cất bước trên đường trường. Câu thơ có biết bao sự hòa hợp, cảm thông giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật thiên nhiên, đất trời.

    Không gian được mở rộng thêm bằng hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Trong nguyên văn chữ Hán, câu thơ đẹp như một bức tranh Đường thi:

    “Cô vân mạn mạn độ thiên không”.

    Chòm mây lẻ loi, lửng lờ trôi qua lưng trời, chưa biết đi đâu trong khi hoàng hôn đang dần buông xuống. Bản dịch thơ đã phần nào làm mất đi vẻ đơn độc và nhịp trôi chầm chậm của đám mây qua những chữ “cô vân”, “mạn mạn”.

    Đọc đến đây, chúng ta không khỏi liên tưởng đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” (Hoàng Hạc Lâu). Hay ý thơ của Nguyễn Khuyến: “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu Điếu). Nhưng trong thơ của Bác, đó không phải là áng mây trắng ngàn năm phiêu diêu giữa bầu trời mênh mang gợi sự vĩnh hằng, bất biến. Đó cũng không phải tầng mây lơ lửng giữa trời thu xanh ngắt gợi bao nổi nhớ khắc khoải mơ hồ của con người giữa cõi hư không; mà đây chỉ là một chòm mây rất quen thuộc trên bầu trời. Nó gợi tả rất nhiều về cái cao rộng, trong trẻo, êm ả của một chiều thu miền sơn cước. Với chòm mây ấy, không gian như ngừng trôi. Đáng chú ý hơn phải có một tâm hồn thật êm ả, thư thải mới có thể dõi theo một chòm mây thong thả, lơ lửng giữa bầu trời bao la.

    Cảnh đẹp là vậy nhưng cũng thoáng buồn vì cái cảm giác nghĩ không biết đến bao giờ người tù mới được tự do như cánh chim, chòm mây trên bầu trời kia. Nhưng vẻ đẹp mang ý nghĩa cổ điển của hai câu thơ còn thể hiện chất thép bản lĩnh phi thường của một người chiến sĩ cách mạng. Bởi vì không có phong thái ung dung, tự chủ, không có sự tự do thực sự về tinh thần thì Bác không thể có những câu thơ cảm nhận tinh tế và bay bổng như vậy trong hoàn cảnh khắc nghiệt của tù đày.

    Không gian tiếp tục chuyển động. Bóng tối nhanh chóng bao trùm cảnh vật nhưng kì lạ thay, từ bản xa, ánh lửa hồng của sự sống xóa tan đêm tối, dẫn hướng người “lữ khách” tìm về nơi trú ngụ:

    Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
    Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

    (Cô em xóm núi xay ngô tối
    Xay hết lò than đã rực hồng).

    Trong nguyên văn chữ Hán của Bác không hề có một chữ “tối” nào. Thế nhưng người đọc vẫn có thể cảm nhận cảnh chiều tối nhờ hình ảnh bếp lửa hồng. Ở cuối câu ba có chữ “ma bao túc” được lặp lại “bao túc ma hoàn” ở câu bốn gợi lên vòng quay của chiếc cối xay ngô. Hình tượng cô gái xoay ngô hiện lên với vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung, sống động. Từ bút pháp tượng trưng, Bác chuyển hướng sang tả thực, chuyển hướng cảm xúc từ buồn đến vui, từ bóng tối ra ánh sáng:

    “Cô em xóm núi xay ngô tối
    Xay hết lò than đã rực hồng”.

    Hình ảnh thơ mang những nét đời thường nhưng chính cái đời thường ấy đã làm cho bài thơ mang đầy đủ vẻ hiện đại. Đồng thời làm cho hình ảnh con người nổi bật lên như là trung tâm của phong cảnh thiên nhiên. Đến đây, bài thơ từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức tranh đời sống, từ trời mây chim muôn chuyển sang con người mà lại là con người lao động. Đây là xu hướng vận động của cấu trúc bài thơ. Thực ra, trong những bài thơ vịnh cảnh chiều hôm nổi tiếng thời xưa cũng thấp thoáng bóng dáng con người:

    “Lom khom dưới núi tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ mấy nhà”.

    (Qua đèo ngang – Bà Huyện Thanh Quan)

    Nhưng ở đó, có con người và thiếu vắng sự sống. Hình ảnh con người chỉ làm tôn thêm cái hùng vĩ, hoang vắng của đất trời, thiên nhiên. Còn ở đây, trong bài thơ của Bác, hình ảnh cô gái xay ngô toát ra vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động và cảnh lao động bình dị ấy càng đáng quý biết bao, đáng trân trọng biết bao giữa chốn núi rừng heo hút. Nó đưa lại cho người đi đường lúc chiều hôm chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người.

    Những chữ “ma bao túc” ở cuối câu ba được lấy âm vắt dòng “bao túc ma hoàn” ở đầu câu bốn đã tạo ra sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng như diễn tả cái vòng quay không dứt của tác động xay ngô. Đến đây, không gian rộng lớn ban đầu cũng dần thu hẹp lại. Từ cảnh trời mây bao là đến cảnh xay ngô. Cuối cùng là cảnh bếp lửa hồng. Hình ảnh bếp lửa “rực hồng” tức là hồng lên so với trước. Điều này chứng tỏ trời đã tối rồi. Vậy là một buổi chiều êm ả đã kết thúc, để nhường cho chỗ đêm tối nhưng không phải là đêm tối lạnh lẽo âm u mà là đêm tối ấm áo bừng sáng bởi ngọn lửa hồng.

    Nếu cả bài thơ Chiều tối là một bức tranh thì cái chấm lửa đỏ mà người nghệ sĩ tài hoa chấm phá lên đó đã mang lại thần sắc cho toàn cảnh. Hình ảnh thiên nhiên lúc nào cũng tràn đầy sức sống. Nó làm tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho con người đang cất bước vạn dặm đường xa.
    • Kết luận
    Bài thơ Chiều tối cho ta thấy cảm quan thiên nhiên ở Bác Hồ thực chất là cảm quan nhân đạo. Cảm quan đầy sức sống bởi vì có cái gì thật nâng niu, trìu mến trong cái nhìn của Bác khi dõi theo một “cánh chim mỏi” và chòm mây đơn độc mà tự do trên bầu trời bao la. Đặc biệt, với hình ảnh đơn sơ của cô gái xay ngô bên bếp lửa hồng, trung tâm cảm hứng của bài thơ lại là con người – con người lao động và ngọn lửa hồng đầy sức sống. Chính vì thế, tuy bài thơ viết về cảnh chiều tối nhưng lại thắp sáng lên trong lòng người đọc một ngọn lửa hồng ấm áp của niềm tin yêu cuộc đời.