Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận - Bài làm 1

    Bài làm:
    Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958, trong chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Hòn Gai. Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới trong những năm đầu xây dựng đất nước.
    Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.
    Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:

    Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
    Sóng đã cài then đêm sập cửa.
    Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:

    Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
    Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
    Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của
    những người lao động:

    Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
    Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
    Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hoà cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:

    Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
    Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
    Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:

    Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
    Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
    Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
    Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:

    Thuyền ta lái gió với buồm trăng
    Lướt giữa mây cao với biển bằng,
    Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:

    Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
    Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
    Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như một chiến sĩ.
    Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:

    Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
    Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
    Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
    Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:

    Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
    Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:

    Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
    Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thuỷ triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến.
    Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:

    Ta hát bài ca gọi cá vào,
    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
    Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỏ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá tư nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:

    Biển cho ta cá như lòng mẹ
    Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
    Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
    Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:

    Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
    Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
    Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc bức tượng đồng về người ngư dân:

    Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
    Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
    Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng loé rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
    Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:

    Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
    Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
    Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang chạy đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển nhô màu mới,
    Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá mặt trời đội biển đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn. Ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang màu mới cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:

    Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
    Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả.
    Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hoà cùng luồng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận - Bài làm 2

    Bài làm:

    Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Ông đã để lại chó đời nhiều áng văn hay, nổi tiếng. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được viết khi ông đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, tiếp xúc với cuộc sống lao động và niềm vui trước cuộc sống mới của nhân dân.
    Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “mặt trời”, nó được ví như quả cầu lửa khổng lồ đang dần dần chìm xuống biển khơi. Ánh sáng rực rỡ, huy hoàng được bùng cháy trước khi lịm tắt. Theo nhịp tuần hoàn của thời gian, vũ trụ đã đi vào trạng thái nghỉ ngơi, được tác giả nói rõ hơn trong các phép nhân hoá:

    Mặt trời xuống biển như hòn lửa
    Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
    Cảnh trời biển quê hương đã được Huy Cận giới thiệu một cách tài tình. Mặt trời lặn, sóng cài then giữ chặt cánh cửa đêm. Màn đêm buông xuống, con người đã bắt dầu một buổi lao động đầy hăng say, náo nức. Công việc đánh, cá vốn rất nguy hiểm, lại vào ban đêm nên càng nhọc nhằn gấp bội. Nhưng người đánh cá trong bài thơ này hiện lên với tinh thần sôi nổi bởi họ làm chủ được công việc, làm chủ thiên nhiên và cả bản thân mình. Họ cất lên tiếng hát để quên đi cực nhọc và như muốn góp cùng với gió làm căng những cánh buồm để chiếc thuyền băng băng trên biển cả:

    Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
    Vùng biển quê hương thật giàu và đẹp. Biển lấp lánh những đàn cá thu như đoàn thoi dệt vào lòng biển. Đấy là một loài cá ngon nổi tiếng. Không những thế, những đàn cá ấy còn mang một vẻ đẹp diệu kì với muôn luồng sáng loang loáng dưới đại dương. Câu cầu khiến “Đến dệt lưới ta đàn cá ơi!” đã thể hiện một niềm hi vọng, ao ước của những người chài lưới muốn có một chuyến đi bội thu. Người dân chài đã bộc lộ niềm vui trước, biển trời.
    Thuyền càng lướt ra khơi, biển cả càng rộng lớn, tràn ngập ánh trăng. Trăng đang lơ lửng trên không và gió càng lồng lộng. Tất cả đã tạo nên một bức tranh trên biển thật đẹp và tráng lệ. Bầu trời, biển cả như cùng tham gia vào công việc lao động của con người. Con thuyền càng lướt ra xa thì càng không hề nhỏ bé mà lại rất hùng dũng, hiên ngang.,
    Trên biển có muôn ngàn loài cá khác nhau: nào cá chim, cá đé, cá nhu, cá song… Các loài cá ấy đã tạo nên rất nhiều màu sắc khác nhau trong lòng biển cả:

    Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé
    Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
    Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
    Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
    Nhờ có trí tưởng tượng như thế nên Huy Cận đã miêu tả các loài cá hết sức đẹp và đặc sắc. Cá vốn là một con vật hết sức bình thường nhưng ông đã chắp cánh cho nó trở nên hết sức huyền ảo. Sự tài hoa của ngòi bút Huy Cận đã được phát huy khá rõ nét. Tất cả tiếng sóng biển, tiếng cá quẫy, tiếng gió thổi đã tạo thành một hợp âm rì rào ở biển Hạ Long về đêm. Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp đã được vẽ nên bằng ngôn từ, nhờ cây bút tài hoa của Huy Cận.
    Từ “hát” trong bài thơ được lặp lại ba lần. Nêu như đầu bài thơ chỉ là một câu hát thì đến đây, câu hát ấy đã trở thành bài ca gọi cá vào:

    Ta hát bài ca gọi cá vào,
    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
    Biển cho ta cá như lòng mẹ
    Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
    Khi đoàn thuyền ra khơi, con người cất lên tiếng hát; khi đoàn thuyền đánh cá trên biển và kể cả lúc trở về bên thì người lao động cũng đều hát. Họ vượt lên mọi khó khăn nguy hiểm để cất lên những câu hát yêu đời.
    Huỵ Cận đã sử dụng phép so sánh thật độc đáo: biển cả rộng lớn như lòng mẹ bao dung. Biển cả hào phóng luôn cho con người bao sản vật quí hiếm, nuôi lớn chúng ta không biết tự khi nào.. Khi mới lọt lòng mẹ, biển đã cho chúng ta cá và cứ tiếp tục mãi như người mẹ cho con không lấy lại bao giờ.
    Trời càng về sáng thì nhịp điệu lao động càng hối hả hơn: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng”. Lúc này con người càng cảm thấy vui bởi họ vừa có được chuyến đi biển bội thu. Nhờ vào thành quả lao động, người dân chài hình dung một cuộc sống tốt đẹp hơn sẽ đến với họ trong tương lai. “Rạng đông" vè “nắng hồng” không những là hình ảnh thiên nhiên mà còn biểu tượng cho một tương lai tươi sáng, một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
    Mặt trời lúc này đã bừng sáng, đoàn thuyền hăng hái ra về như chạy đua cùng mặt trời. Nó đã tạo nên một hình ảnh hết sức sống động, lãng mạn.
    Trong không gian thiên nhiên rộng lớn, con người đã làm chủ, chinh phục được thiên nhiên để khẳng định mình. Bài thơ có kết cấu đầu cuối tương đồng về hình ảnh thiên nhiên và người lao động. Mở đầu bài thơ là hình ảnh mặt trời và câu hát, kết thúc bài thơ cũng là hình ảnh mặt trời và câu hát, nhưng ở đầu bài thơ là tiếng hát hăng hái ra khơi, còn cuối bài thơ là tiếng hát thắng lợi trở về. Hình ảnh “mặt trời” ở đầu bài thơ thì chìm xuống đỏ ối, kết thúc bài thơ thi rực rỡ như xua tan đi màn đêm đen tối, một ngày mới lại bắt đầu.
    Bằng sự liên tưởng và tựởng tượng phong phú, Huy Cận đã khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ và đã thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ đối với đất nước và cuộc sống xây dựng đang mỗi ngày một đi lên.
     
  3. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận - Bài làm 3

    Bài làm:

    Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc đầy thắng lợi, miền Bắc nước ta ngập tràn không khí mới, hăng hái và phấn khởi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí hân hoan ấy vào một lần đi thực tế ở Hòn Gai, nhà thơ Huy Cận đã sáng tác bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, một trong những bài thơ hay nhất của thời kì này. Bài thơ đầy nét nồng hậu, khoẻ khoắn, yêu đời, ca ngợi sự giàu đẹp của quê hương và vẻ đẹp của con người lao động mới, hăng hái sản xuất làm giàu cho đất nước.
    Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế Hòn Gai, Quảng Ninh. Ông là nhà thơ dẫn đầu phong trào thơ mới với hai nguồn cảm hứng, tràn đầy niềm vui về cuộc sống mới trong thời kì miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cảm hứng về vẻ đẹp thiên nhiên và vũ trụ khiến cho bài thơ đẹp lộng lẫy và lung linh như một bức tranh sơn mài. Bài thơ không là một khúc tráng ca của người lao động trên biển mà còn là lời ngợi ca sự giàu đẹp của biển trời Việt Nam ta.
    Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển vừa diễm lệ, huy hoàng vừa hùng vĩ và căng tràn sức sống:

    Mặt trời xuống biển như hòn lửa
    Sóng đã cài then, đêm sập cửa
    Chỉ với hai câu thơ, không gian rộng lớn của vũ trụ đang đi vào trạng thái tĩnh hiện lên thật đẹp và vô cùng rõ nét. Hình ảnh mặt trời qua điểm nhìn tưởng tượng, ở rất xa mới nhìn được vùng biển phía Tây, nơi mặt trời đang lặn xuống được ví như “hòn lửa” rực rỡ gợi tả chân thực màu sắc của cảnh hoàng hôn tráng lệ trên biển. Biện pháp ẩn dụ, nhân hoá cùng với vần trắc “lửa-cửa” đã diễn tả nhịp đi của thời gian nhanh mạnh, “sập” lại, khép lại một ngày như những con người sau buổi lao động vất vả trở về nhà nghỉ ngơi, trả lại sự yên tĩnh cho không gian. Với những liên tưởng, so sánh đầy bất ngờ và thú vị, vũ trụ bao la như là một ngôi nhà lớn với cánh cửa là màn đêm huyền bí, sóng lượn là chiếc then cài. Thiên nhiên đang dần đi vào trạng thái tĩnh lặng.
    Trái với trạng thái tĩnh của thiên nhiên, những người con lao động mới bắt đầu làm việc, đoàn thuyền đánh cá bắt đầu ra khơi:

    Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
    Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
    Câu thơ đã làm nổi bật khí thế lao động đầy hăng hái, tươi vui của những con người lao động “Tập làm chủ, tập làm người xây dựng/Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!”. Hình ảnh hoán dụ Đoàn thuyền đánh cá và phụ từ “lại” diễn tả nhịp điệu lao động quen thuộc, cho thấy công việc đã được diễn ra nhiều đêm như một vòng tuần hoàn, những hoạt động đã đi vào nề nếp, ổn định và những con người lao động đã làm chủ biển khơi. Đoàn thuyền dong buồm ra khơi hừng hực khí thế của cả một tập thể khi ngày sắp tàn, màn đêm bắt đầu buông xuống, cái tĩnh của thiên nhiên tương phản với cái động của con người. Vẻ đẹp ấy đã hiên lên thật rõ nét không chỉ bằng những hình ảnh tương phản mà còn bằng những nhạc điệu đối lập. Những vần trắc liên tiếp dùng để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, những vần bằng khơi-khơi đã mở ra, ngân nga và kéo dài, làm bật lên hình ảnh những người ngư dân ra khơi. Chính sự đối lập ấy đã làm bật lên những nỗi khó khăn, nhọc nhằn của những ngư dân với công việc đánh cá về đêm. Tuy khó khăn, vất vả nhưng những con người ấy luôn lạc quan, cất cao câu hát, dong thuyền ra khơi. Chi tiết “câu hát căng buồm cùng gió khơi” đầy lãng mạn, được gợi lên bằng sự liên tưởng độc đáo như tiếng hát vang cao, vút xa cùng với gió căng cánh buồm đẩy những “con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi”.
    Những câu hát ấy là biểu hiện của niềm lạc quan, phấn khởi và nhiệt tình lao động của những con người đang làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời mình:

    Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
    Cá thu biển Đông như đoàn thoi
    Đêm ngày dệt biển muông luồng sáng
    Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
    Khúc hát khoẻ khoắn đã thấy sự giàu có của biển cả nước Việt Nam ta đồng thời cho thấy niềm mong mỏi đánh bắt được nhiều cá của những ngư dân. Từ “bạc” là một định ngữ nghệ thuật, có ý nghĩa số lượng cá nhiều, phong phú, tạo nên sự giàu có, quý giá của biển. Vẻ đẹp lãng mạn của biển khơi hiện lên thật rõ nét với nhiều hình ảnh so sánh, nhân hoá nối tiếp nhau. Từng đoàn cá thu lao trên biển như “đoàn thoi” trong máy dệt, con thoi mang sợi tơ thì những đoàn cá mang ánh sáng lấp lánh dệt tấm thảm biển “muông luồng sáng”, từng đoàn cá vào lưới lại mang theo ánh sáng lung linh “dệt lưới”. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!” thể hiện ước vọng đánh bắt được thật nhiều cá, đại từ “ta” vang lên thể hiện niềm tự hào,kiêu hãnh không còn đơn côi, không còn là cái tôi nhỏ bé của ngày trước mà là là cái tôi của một tập thể đầy sức mạnh trong thời kì mới. Nhịp thơ sôi nổi, hào hứng, ngân dài và vang xa như chính tâm trạng sảng khoái, hăng hái, say sưa và tình yêu nghề, yêu biển quê hương của những con người lao động mới.
    Niềm cảm hứng say sưa, bài ca lao động vẫn vang lên khoẻ khoắn, ngợi ca cảnh đánh cá trên biển, dưới trời đầy trăng sao:

    Thuyền ta lái gió với buồm trăng
    Lướt giữa mây cao với biển bằng
    Giữa bức tranh trời mây lồng lộng, mênh mông biển cả, công việc đánh cà đầy cực nhọc hiện lên một cách đầy thi vị. Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, thiên nhiên như là những người bạn thân thiết, “gió” là người lái, “trăng” là cánh buồm làm cho công việc nhọc nhằn, vất vả trở nên thậy nhẹ nhàng và đầy chất thơ. Động từ “lướt” thể hiện độ nhanh, nhẹ của những con thuyền được lái gió và khí thế phơi phới của người dân chài. Cảnh thiên nhiên kì vĩ, lớn lao, phóng khoáng bởi con người sảng khoái, tự do, làm chủ bản thân mìnnh. Trong mối quan hệ giao hoà, thiên nhiên càng huy hoàng, lớn lao bao nhiêu thì càng tôn vẻ đẹp con người lên bấy nhiêu.
    Tầm vóc của họ vụt cao lên, sánh ngang với biển trời, vũ trụ, thực hiện công việc của mình bằng tất cả trí tuệ và năng lực:

    Ra đậu dặm xa dò bụng biển
    Dàn đan thế trận lưới vây giăng
    Bên cạnh cái ung dung và say sưa của những người dân làng chài, ta vẫn cảm nhận được cái vất vả của họ. Công việc thật sự là một trận đánh được diễn tả bằng rất nhiều động từ mạnh, thể hiện tư thế làm chủ thiên nhiên, tư thế sẵn sàng lao động hết mình của những con người mới. Hằng đêm, họ phải vượt qua bao nhiêu dặm biển trong cảnh trời đêm, ra đậu ngoài khơi xa mới có thể đánh bắt được nhiều cá. Không chỉ thế họ còn phải “dò bụng biển” mới có thể tìm được các bãi cá, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Chính nhờ sự am hiểu sâu sắc về nghề nghiệp và có niềm cảm thông sâu sắc với những người dân chài tác giả mới có thể vẽ nên bức tranh đầy hiện thực nhưng không kém phần lãng mạn ấy.
    Không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống:

    Cá nhụ cá chim cùng cá đé
    Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
    Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
    Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, biển trời với bao nhiêu loài cá mang bao nhiêu màu sắc lung linh trở nên thật kì ảo dưới ánh trăng. Bằng biện pháp liệt kê và điệp từ “cá”, tác giả đã kể tên nhiều loài cá quý, thể hiện sự phong phú và đa dạng về chủng loại, bổ sung về chủng loại cá ở đoạn thơ tả đàn cá thu “dệt biển”. Hình ảnh cá song là một nét vẽ tài hoa, vẩy cá đen, hồng lấp lánh trên biển nước lấp loáng ánh trăng như những ngọn đuốc giữa biển đêm thăm thẳm. Cái “quẫy đuôi” làm cho bức tranh thật sinh động cùng với nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho đoạn thơ đẹp như một bức tranh sơn mài vô cùng rực rỡ. Thiên nhiên được nhân hoá “thở”, cùng với cách gọi cá là “em” thể hiện tình yêu quê hương đất nước và tình yêu biển sâu nặng của tác giả.
    Tiếng hát của con người lao động lại cất cao phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm tin yêu cuộc sống:

    Ta hát bài ca gọi cá vào,
    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
    Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động, cả đoàn thuyền đánh cá. Người dân chài cất tiếng hát tả lại công việc của mình với niềm yêu đời mãnh liệt, biến khó khăn thành niềm vui. Lời ca gọi cá vào đã làm tăng thêm phần thơ mộng của bức tranh sơn mài. Hình ảnh “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” là một hình ảnh vô cùng sáng tạo và giàu chất thơ, trăng in bóng xuống nước, sóng vỗ vào mạn thuyền “gõ nhịp” gọi cá vào. Những vần điệu độc đáo được dệtt nên bằng cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với biển và con người thể hiện tình yêu lao động, khát khao chinh phục thiên nhiên và ước mơ làm giàu, làm đẹp cho đời của những con người lao động mới.
    Cảm xúc dâng trào, lời ca ngợi biển vang lên đầy tha thiết:

    Biển cho ta cá như lòng mẹ
    Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
    Biển không chỉ đẹp mà biển còn rất giàu, nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng mang lại hạnh phúc cho con người. Hình ảnh so sánh “như lòng mẹ” quen thuộc là lời ca ngợi biển cà, thể hiện niềm tự hào của những người dân làngchài đối với biển quê hương và ví biển nuôi sống con người như một người mẹ chăm sóc, nuông nấng bầy con. Giọng thơ tự nhiên, chân thành, ấm áp, chứa chan tình yêu thương và mang âm hưởng ca dao.
    Đêm sắp tàn, trời sắp sáng, những ngư dân yêu biển, yêu quê hương ra sức lao động:

    Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
    Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
    Với nhịp thơ dồn dập, câu thơ đã diễn tả chân thực thái độ và nhịp lao động đầy khẩn trương của đoàn thuyền đánh cá. Hình ảnh “kéo xoăn tay” như tạc nên một bức tượng ngư dân đầy sức sống, dáng người nghiêng mình trụ vững, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn kéo lưới căng, khoẻ vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh “chùm cá nặng” gợi tả thành quả lao động bội thu, cho thấy lưới có rất nhiều cá, thoả mong mỏi của ngư dân. Đồng thời hình ảnh ấy còn ẩn chứa bao niềm vui tươi, sung sướng của người ngư dân trước thành quả mà họ đã tốn bao công sức mới thu hoạch được và niềm say mê cống hiến, đóng góp những thành quả lao động của mình cho đất nước.
    Lưới cá nặng được kéo lên, những tia nắng sớn chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh đủ các màu sắc:

    Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông
    Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
    Vẩy đuôi của những chú cá lấp lánh ánh bình minh rực rỡ. Những từ “bạc, vàng” tạo chocâu thơ mang màu sắc lấp lánh, một mặt diễn tả sự giàu có của biển cả, đồng thời cũng cho thấy thái độ tôn trọng của những người đánh cá với những thành quả lao động của mình. Đồng thời đó còn là niềm biết ơn của họ trước sự hào phóng, ưu ái của biển cả đối với con người. “Đón nắng hồng” biểu hiện trạng thái sảng khoái, phấn chấn của họ khi công việc thành công mỹ mãn. “Nắng hồng” không những khắc hoạ được vẻ đẹp tươi sáng của bầu trời mà còn thể hiện được lòng yêu đời, yêu thiên nhiên. Màu hồng của một ngày mới, một cuộc đời mới đang chào đón mọi người.
    Tiếng hát hân hoan vang lên trong nhịp sống đầy khẩn trương cho một ngày mới nắng lên:

    Câu hát căng buồm với gió khơi
    Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
    Mặt trời đội biển nhô màu mới
    Mắt cá huy hàn muôn dặm phơi
    Bài thơ bắt đầu bằng cảnh hoàng hôn rực rỡ và kết thúc với một bình minh vô cùng tươi sáng. Bốn câu thơ miêu tả thật đẹp quang cảnh kì vĩ về cuộc chạy đua giữa đoàn thuyền đánh cá với mặt trời trên biển cả khắc hoạ thật đậm nét vẻ đẹp khoẻ mạnh của những người đánh cá và vẻ đẹp hùng vĩ của biển trời, của thiên nhiên tổ quốc. Ý thơ phảng phất không khí thần thoại, anh hùng ca trong lao động. Mở đầu bài thơ là hình ảnh “mặt trời xuống”, giờ là “mặt trời đôi biển” nhô lên giữa những sóng nước mênh mông.Không khí lao động cực kỳ phấn khởi bởi niềm vui chiến thắng, với thái độ nhiệt tình, yêu lao động khép lại bài thơ và thể hiện một tương lai tươi sáng hơn trong công cuộc xây dựng đất nước. Động từ “chạy đua” cho thấy sức lực của họ vẫn dồi dào, khí thế lao động của họ vẫn mạnh mẽ. Họ chạy đua với thời gian, với mặt trời. Đặt trong sự tương ứng mới thấy sức mạnh của con người được miêu tả nổi bật hơn, câu thơ đã nâng cao tầm vóc của con người trước vũ trụ. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuận hoán dụ trong hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” đã vẽ nên cảnh bội thu cá và cuộc sống ấm no, ngập tràn hạnh phúc của người dâ vùng biển, bằng mồ hôi và sức lao động, họ đã viết nên bài ca cuộc sống.
    Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một khúc tráng ca lao động hào hùng. Bằng bút pháp lãng mạn, nhịp thơ khoẻ với trí tưởng tượng mới mẻ, độc đáo, Huy Cận đã ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương, và đặc biệt là hình ảnh người lao động được miêu tả với nhiều vẻ đẹp tráng lệ, khoẻ khoắn. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc đáo, mang âm hưỡng khoẻ khoắn, hào hùng và lạc quan.
    Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một khúc ca vừa hào hứng, vừa phơi phới và khoẻ khoắn, mạnh mẽ, kết hợp với sự vận động tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ khiến bài thơ bước khởi đầu trong cảm hứng mới về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới đang sôi động. Bài thơ khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
     
  4. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận - Bài làm 4

    Bài làm:

    Đoàn thuyền đánh cá được coi là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống mới. Tác giả Huy Cận sau chuyền đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ có nhiều đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ có hình ảnh tráng lệ về thiên nhiên và con người lao động thể hiện sự hoà giữa thiên nhiên và con người.
    Khổ thơ đầu tiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá thể hiện lên bước đi chầm chậm của thời gian: Cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn cũng là thời điểm đoàn thuyền nhô lên tách bến ra khơi.

    Mặt trời xuống biển như hòn lửa
    Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
    Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
    Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
    Với tài năng bút pháp già dặn. Tác giả Huy Cận miêu tả thiên nhiên bằng sức tưởng tượng phong phú, 2 dòng thơ đầu hình ảnh thiên nhiên với sự kết hợp nối nhân hoá và so sánh thú vị. Mặt trời xuống biển nghĩa là mặt trời đang chìm dần về phía tây. Lúc đấy mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực từ từ nặn xuống biển. Vũ trụ được ví như một ngôi nhà đồ sộ. Sóng biển thành gia chủ cài then sập cửa. Vũ trụ yên nghỉ, thiên nhiên đi vào cõi yên tĩnh, còn đoàn thuyền thì sao? Đoàn thuyền đánh cá ra khơi không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả 1 đoàn thuyền, 1 sức mạnh lớn của cuộc đời đổi thay. Chữ hai là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định đi vào nề nếp trong hoà bình. Họ ra đi trong lời ca tiếng hát hâm hở, sôi nổi hào hứng. Gió biển thổi mạnh cánh buồm no gió căng lên. Tiếng hát ra khơi, buồm căng là 3 chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi hăng say và khí thế ra khơi của ngư đoàn vùng biển. khổ thơ thứ nhất hiện lên hai hình ảnh đối lập thiên nhiên yên nghỉ còn con người lao đọng hào hứng.
    Đoàn thuyền ra khơi trong khí thế hào hùng vui tươi, sảng khoái lời ca tuyến hát ra khơi không dứt vì sự giàu có tiềm ẩn trong lòng biển quê hương:

    Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
    Cá thu biển Đông như đoàn thoi
    Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
    Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
    Điệp ngữ biển đông nhằm xác định chủ quyền dân tộc, nghệ thuật ẩn dụ, so sánh diễn tả chính xác màu sắc và hình dáng của cá mà còn nói nói đến giá trị và sự đông đúc của cá thu trên biển. Nhà thơ còn nhân hoá các loài cá dưới biển bằng lời mời gọi thân thương, cá ơi, dệt lưới ta. Lời thơ thể hiện mơ ước liềm tin chuyến ra khơi này thắng lợi.
    Khổ thơ thức 3 của bài thơ nói về cảnh đánh cá một đêm trắng trên vịnh Hạ Long. Đoàn thuyền đang làm chủ vùng biển, họ tích cực trình tự trên biển của mình.

    Thuyền ta lái gió với buồm trăng
    Lướt giữa mây cao với biển bằng,
    Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
    Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
    Hình ảnh mới lạ với bút pháp nhân hoá giàu tưởng tượng thiên nhiên kết hợp hài hoà với con người trăng làm buồm, gió cầm lái hướng dẫn thuyền đi, Vậy là trời mây nước cùng hợp lực đưa thuyền ra xa. Đoàn thuyền thực hiện công việc theo trình tự, Thuyền đầu dò tìm luồng cá rồi giăng lưới. Họ là những con người lao động tích cực giữa bao la biển trời. Khổ thơ diễn tả tâm trạng vui tươi của đoàn thuyền khi đánh cá trên biển.
    Khổ 3 trong bài thơ thể hiện tư thế con người tự do làm chủ cuộc sống, làm chủ biển trời thì khổ 4 nhà thơ hướng tầm nhìn xuống lòng biển. Vẻ đẹp và tiềm năng đồi dào của biển hiện lên giữa đêm trăng. Nhà thơ liệt kê khá đa dạng các loài cá với đầy màu sắc. đuối đen hồng, là hình ảnh gợi tả bầy cá sóng phản chiếu ánh trăng như lễ hội rước đuốc, Đồng thời tác giả còn nhân hoá các loài cá đuôi em quẫy, làm ánh lên màu sắc của cá. Sau cùng là nhịp thở của vũ trụ về đem “Đêm thở”. Là nối nhân hoá sinh động diễn tả cảnh sóng vỗ ri rào. Hàng triệu giọt nước tung bay chiếu ánh sáng trắng tạo lên ngàn sao leo đỉnh đầu đoàn thuyền vẫn cất cao tiếng đây là lời ngợi ca sự giàu có của biển.
    Ta hát bài ca gọi cá vào,
    Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
    Biển cho ta cá như lòng mẹ,
    Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
    Qua nhịp thở của vũ trụ về đêm. Đoàn thuyền hứng khởi cất cao tiếng hát mời gọi cá vào lưới. Vẫn với biện pháp nhân hoá quen thuộc trăng soi bóng nước sáng lăn tăn bóng trăng đập vào thuyền. Tạo thành tác động trăng gõ thuyền để giúp người xua cá vào. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh biển với lòng mẹ để nói lên niềm tự hào. Giọng thơ ấm áp chứa chan tình nghĩa.
    Khổ 6 khi trăng đã xế ngang đầu, vũ trụ đi đến nửa đêm về sáng cũng là thời điểm chín muồi để đoàn thuyền thu hoạch mẻ cá đầy lưới.

    Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
    Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
    Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
    Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
    Bầu trời sao đã thưa và mờ, cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng, Những cánh tay răn chắc kéo lưới, xoăn tay. “Chùm cá nặng” là hình ảnh ẩn dụ được mùa cá. Trên khoang thuyền đầy áp các loại cá vây bạc, đuôi vàng. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện. Sắc cá dưới ánh trăng, đuôi cá được miêu tả thật tuyệt vời.
    Khổ thơ cuối thể hiện cảm xúc mạnh mẽ, hình ảnh con người vội đưa thuyền quay về bến cũ.

    Câu hát căng buồm với gió khơi,
    Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
    Mặt trời đội biển nhô màu mới
    Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
    Đoàn thuyền căng buồm lướt sóng trở lại bến xưa giờ này họ trở về với câu hát vui tươi hơn, Nhộn nhịp hơn vì đó là khúc khải hoàn ca mang chiến thắng trở về. Nghệ thuật nhân hoá sinh động thuyền chạy đua mặt trời cũng là phép tu từ hoán dụ trong việc miêu tra mắt cá đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống no ấm của người dân vùng biển.
    Qua bài thơ ta thấy được hình ảnh thiên nhiên, sự vui tươi hăng say lao động của những người dân vùng biển. Tác giả Huy Cận với những nghệ thuật ẩn dụ nhân hoá giúp hình ảnh lao động càng trở lên sinh động, một bức tranh hoàn hảo.