Phân tích đoạn đầu bài thơ “Tiếng hát đi đày” của Tố Hữu

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Đề bài :Phân tích đoạn đầu bài thơ “Tiếng hát đi đày” của Tố Hữu

    Bài làm:
    Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, tập thơ “ Từ ấy” là một tập thơ rất xuất sắc, được tái bản nhiều lần. Bài thơ “ Tiếng hát đi đày” là bài thơ được rút từ phần Xiềng xích trong tập thơ này. Bài thơ là tiếng lòng của người tù cách mạng trên đường từ nhà lao này đến nhà lao khác. Mặc dù vậy, nhưng bài thơ lại vang lên với nhịp điệu vui tươi, hứng khởi, tạo động lực cho người đọc bài thơ.
    Chi tiết hơn, Tiếng hát đi đày được sáng tác khi tác giả đang được chuyển từ nhà lao Quy Nhơn sang nhà lao Dayka ở Tây Nguyên. Khi đọc bài thơ, người đọc có cảm giác sự tự do, tự tại trên những vần thơ, tuy nhiên sự thật là ông đang ở trong tù, và người tù đó luôn có khát khao tự do, khát vọng được thoát ra ngoài, đem đến tự do và độc lập cho nước nhà. Nhịp điệu vui tươi, hào hứng được tác giả đem đến xuyên suốt bài thơ, đặc biệt là khổ thơ đầu:

    Đường lèn xứ lạ Kong Tum
    Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao
    Thông reo bờ suối rì rào
    Chiu chiều chiu chít, ai nào kêu ai?
    Chỉ qua bốn câu thơ, nhưng người đọc có thể tưởng tượng được không gian hoang sơ, trùng trùng điệp điệp ở nơi đất lạ này. Tố Hữu sử dụng từ “ đất lạ” để miêu tả tâm trạng, nỗi bơ vơ lạc lõng của chính bản thông khi đang phải chịu cảnh giam hãm, tù đày nơi xa lạ. Những câu thơ vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bát ngát, bao la nhưng không một bóng người. Hai vế thơ đối nhau được tác giả sử dụng để tăng sự cô quạnh nơi núi rừng hoang sơ. Giữa khung cảnh như vậy, có lẽ tác giả đang bị choáng ngợp bởi thiên nhiên hùng vĩ nhưng lại lạnh lẽo, cô tịch.

    Thông reo bờ suối rì rào
    Chim chiều chiu chít, ai nào kêu ai?
    Hai câu thơ này có cảm giác là tiếng reo vui cất lên, để đánh thức trái tim những người chiến sĩ. Một khung cảnh nên thơ, lãng mạn hiện ra qua cụm từ “ thông reo bờ suối”, khiến cho chúng ta như lạc vào cõi tiên. Có tiếng thông reo trong gió, nước chảy rì rào bên bờ suối thật vui tai. Khung cảnh nên thơ như vậy hoàn toàn đối lập với cảnh núi non cô tịch ở hai câu thơ trên.
    Câu thơ cuối của khổ thơ có cụm từ “ chim chiều chiu chit” rất đặc sắc và mang tính gợi tả. Chim ở đây không chỉ là chim kêu bình thường mà là chim chiều. Tác giả sử dụng như vậy có lẽ vì thời gian buổi chiều thường khiến con người ta có cảm giác man mác buồn, nhớ thương quê hương của con người đang ở nơi đất lạ. Tiếng chim kêu “ chiu chít” không vội vàng, gấp gáp nhưng cũng không sôi động khiến cho người đọc cảm thấy não nề, buồn bã. Tiếng kêu chiu chít tạo cảm giác trống vắng đến não lòng.
    Sự xót xa thật sự có lẽ nằm ở vế sau, ở hình ảnh “ ai nào kêu ai”. Bởi lẽ ở giữa nơi núi rừng hoang vu, rộng lớn, cô tịch này, dù có chim kêu tha thiết, thê thảm đến đâu thì cũng chẳng ai thấu, chẳng ai nghe. Câu hỏi cất lên như để tự hỏi và tự trả lời cho hoàn cảnh của tác giả.
    Qua bốn câu thơ, người đọc cảm nhận rõ tâm trạng của tác giả, một con người đang rơi vào tâm trạng cô đơn, lạc lõng khi bị giam hãm, tù đày. Nỗi lo nước mất nhà tan ngày đêm đau đáu trong lòng ông. Người đọc sẽ không thôi ám ảnh, xót xa cho con người tài hoc như Tố Hữu khi ông phải trải qua những năm tháng tù đày, khổ sở đến nhường này.