Phân tích đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Bài làm 1 Bài làm: Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du là cách phác hoạ tô điểm những bức tranh thiên nhiên tương xứng với hình ảnh tâm trạng của Thuý Kiều. Cảnh ngày xuân là bức phong cảnh mùa xuân và cảnh du xuân của chị em Thuý Kiều, một bức tranh tươi đẹp, trong sáng, sống động nhưng vẫn hàm ẩn những nét buồn, dự cảm một tương lại gần của Thuý Kiều. Bốn câu đầu với bút pháp cổ điển tác giả tả cảnh thiên nhiên theo trình tự không gian, thời gian, bút pháp chấm phá, tượng trưng ước lệ. Bốn câu mở đầu khái quát phong cảnh thiên nhiên với những nét đặc trưng của mùa xuân. Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Hai câu mở đầu vừa gợi không gian mùa xuân, vừa diễn tả sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoắt qua mau, 90 ngày xuân nay tiết trời đã sang tháng ba – Tháng cuối cùng nhưng trên bầu trời khoáng đạt cao rộng, những cánh én vẫn rộn ràng, trao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân vẫn đang ở kì xung sức. Bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân ở hai câu thơ: Cỏ non, bông hoa... Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu tô điểm bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt diệu, tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống – Cỏ non, khoáng đạt, trong trẻo – xanh tận chân trời. Nhẹ nhàng thanh khiết trắng điểm một vài bông hoa. Chữ trắng được thêm vào đảo lên trước động từ và danh từ tạo sự bất ngờ, mới mẻ, khiến nét vẽ cảnh vật trở lên có hồn, tinh khôi, thanh thoát. Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân thật đẹp, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, chất gợi. Qua bức tranh thơ đó người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, ấm áp của mùa xuân. Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Nguyễn Du tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoạt cảnh du xuân của con người. Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ tìm về bóng hình quá khứ. Đó là lễ hội truyền thống, Nguyễn Du chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự xự ở hai hoạt cảnh này. Lễ là tảo mộ, thăm viếng, sửa sang quét tước phần mộ để tưởng nhớ người thân tổ tiên đã khuất. Hộ là đạp thanh: Lễ và hội trong tiết thanh minh là sự giao hoà độc đáo giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đã qua và cái sắp tới. Chứng tỏ nhà thơ rất hiểu và trân trọng những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc. Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Bốn câu thơ sau là ngôn ngữ tự xự tả bức tranh của lễ hội. Một hệ thống danh từ, động từ, tích từ: Gợi lên không khí lễ hội thật rộn ràng. Các danh từ như: “yến anh”, “chị em”, “tài từ”, “giai nhân” gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội, các động từ “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội, các tính từ “gần xa”, “nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi hội, đồng thời cách nói ẩn dụ nô nức, yến anh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân tất bật, nhộn nhịp nhất là những nam thanh nữ tú, tài tử, giai nhân. Thông qua việc du xuân của họ, tác giả khắc hoạ một truyền thống văn hoá thật đẹp và sống động. Sáu câu thơ cuối tả khung cảnh chị em du xuân trở về: Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn đan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Nắng nhẹ, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Đến đây không khí nhộn nhịp, dộn dàng của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần. Những từ láy: Tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái, cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật, đó là cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đang còn và sự linh cảm về điềm sắp xảy ra đã xuất hiện. Mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng, trong bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến đổi theo cảnh vật, sáng – chiều, đầu khổ – cuối khổ và linh cảm tương lai đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình.
Phân tích đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Bài làm 2 Bài làm: Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại và giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du miều tả khung cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, ba chị em Kiều rủ nhau đi dạo chơi xuân. Kết cấu đoạn thơ theo trình tự thời gian. Bốn câu đầu tả cảnh mùa xuân. Tám câu tiếp tả tiết Thanh minh. Sáu câu cuối là cảnh chị em Kiều du xuân trở về. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp được dệt nên bằng những hình ảnh tiêu biểu, từ ngữ chọn lọc và nghệ thuật miêu tả tinh tế của Nguyễn Du: Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Thời gian thấm thoắt tựa thoi đưa. Vừa mới giêng, hai, nay đã bước sang tháng ba. Trên không trung bao la, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng. Chỉ bằng hai câu: cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa, Nguyễn Du đã thể hiện được thần thái của mùa xuân. Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là màu sắc chủ đạo làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền xanh bát ngát ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Sự hài hoà tuyệt diệu của màu sắc gợi lên vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, căng đầy sức sống của mùa xuân. Tám câu thơ tiếp theo tả khung cảnh lễ hội: Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân. Dập dìu tài tử giai nhân, Ngựa xe như nước áo quần như nêm Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Đầu tháng ba, bầu trời quang đãng khí trời mát mẻ vương chút hơi lạnh của cái rét Nàng Bân khiến cỏ cây, hoa lá tốt tươi. Theo phong tục có từ lâu đời, trong tiết Thanh minh, người ta đi tảo mộ, tức là di thăm viếng và sửa sang lại phần mộ của người thân để bày tỏ tưởng nhớ và lòng biết ơn.. Không khí lễ hội rộn ràng, đông vui. Những ẩn dụ so sánh: nô nức yến anh, ngựa xe như nước, áo quần như nêm gợi lên hình ảnh từng đoàn người đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Lễ hội mùa xuân tấp nập, nhộn nhịp bởi nam thanh, nữ tú, tài tử, giai nhân từ mọi nơi không ngớt kéo về. Quanh những ngôi mộ, người ta rắc vàng thoi, bạc giây, bày cỗ, thắp nến, đốt nhang khấn vái.., Khói bay nghi ngút, hương thơm toả ngát một vùng. Sự cách trở âm dương hầu như đã bị xoá nhoà. Người đã khuất và người còn sông giao hoà trong cõi tâm linh thiêng liêng, giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng của mùa xuân. Sáu câu thơ cuối tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về: Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn đan tay ra về. Bước dần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Khung cảnh vẫn mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân: nắng nhạt, khe suối nước trong veo, một nhịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển động đều hết sức nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tầy bước chân người chầm chậm thơ thẩn, dòng nước róc rách uốn quanh.., Không gian đang tĩnh lặng dần. Sự nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa. Những từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao đã nhuốm màu tầm trạng. Cảm xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội mùa xuân mang lại cho mỗi người vừa mới đây thôi, vậy mà dường như Kiều đã linh cảm về một điều, gì đó đáng buồn sắp xảy ra. Quả nhiên, dòng nước uốn quanh đã dẫn bước chân Kiều đến với nấm mồ hoang lạnh của Đạm Tiên và tiếp sau đó, nàng sẽ gặp chàng thư sinh Kim Trọng có Phong tư tài mạo tuyệt vời. Qua đoạn trích, ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa kể và tả, sử dụng từ ngữ giàu chất tạo hình đế miêu tả cảnh ngày xuân. Bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế của nhà thơ cũng phản ánh được phần nào tâm trạng của nhân vật mà ông yêu quý.
Phân tích đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Bài làm 3 Bài làm: Mùa xuân là mùa của hoa thơm cỏ lạ, mùa của lễ hội văn hoá dân gian, mùa xuân đã hơn một lần đi vào thơ ca của Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông, Hàn Mặc Tử... Đến với bức tranh mùa xuân xinh đẹp của Nguyễn Du trong Cảnh ngày xuân, mùa xuân của lễ hội góp thêm một hương sắc mới. Từ trên đồi cao, mùa xuân mở ra trước mắt chúng ta là một không gian bất tận trong ánh nắng ban mai ấm áp của đất trời. Lúc này đã vào tháng ba bầu trời chưa hẳn trong xanh như trời thu những cũng đủ in hình những cánh én rộn ràng bay lượn: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cái “thoi đưa” của cánh én hay chính thời gian mùa xuân trôi đi đến mau lẹ. Trên nền không gian bao la ấy một bức tranh chấm phá về mùa xuân đẹp như một bức hoạ dệt gấm thêu hoa: Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa Màu xanh của cỏ làm nền cho bức tranh màu trắng của hoa lê tô điểm cho bức tranh thêm trong sáng tinh khôi, nhẹ nhàng mà quyến rũ. Nguyễn Du đã trọn đúng hai gam chủ đạo để đặc tả mùa xuân, một mùa xuân trang nhã đến thế là cùng.Ta đã từng bắt gặp cái hồn của mùa xuân trong thơ Nguyễn Trãi: Cỏ xanh như khói bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời Hay đây là hình ảnh mùa xuân ở một sườn đồi trong thơ Hàn Mặc Tử: Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời Giữa khung cảnh bao la sống động say đắm lòng người là không khí vui tươi náo nức của lễ hội dân gian: Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Và đây là cảnh trẩy hội đông vui tưng bừng náo nhiệt: Gần xa nô nức yến anh Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm Biết bao “tài tử giai nhân”, “dập dìu” vai sánh vai, chân nối chân theo nhịp bước dòng người cứ tập nập, ngựa xe cứ cuồn cuồn, áo quần đẹp đẽ tươi thắm sắc màu. Cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi hình ảnh đoàn người du xuân nhộn nhịp ríu rít vui tươi như chim oanh chim én. Nhưng đẹp nhất và lộng lẫy nhất vẫn là những nam thanh nữ tú, họ là hồn của bức tranh xuân. Không khí lễ hội được đại thi hào của chúng ta miêu tả rất tỉ mỉ cụ thể. Đó là một nét đẹp văn hoá lâu đời của người phương Đông. Đồng thời cũng thể hiện cái “phong lưu” của chị em Thuý Kiều. Trời đã về chiều, mặt trời đã gác núi: Tà tà, bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Nhịp thơ chậm rãi như bước chân nhè nhẹ như nỗi lòng man mác lưu luyến của con người khi hội đã tan. Cảnh vẫn thanh vẫn nhẹ nhưng tất cả đều chuyển động từ từ. Mặt trời ngả bóng dần về tây bước chân của con người thì “thơ thẩn”, dòng nước uốn lượn nhẹ nhàng. Nhưng không còn cái không khí rộn ràng của lễ hội nữa. Cái “nao nao” của dòng nước hay chính cái bâng khuâng xao xuyến của dòng người. Rõ ràng cảnh mùa xuân vào lúc xế chiều đã nhuốm màu tâm trạng. Đại thi hào hình như đang dự báo linh cảm một điều sắp xảy ra rồi sẽ xảy ra. Chỉ ít phút nữa thôi Kiều sẽ gặp mộ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng thư sinh hào hoa Kim Trọng. Bằng tài năng quan sát tinh tế, bằng sự nhạy cảm của một tâm hồn thơ, cách sử dụng từ ngữ hình ảnh sinh động, Nguyễn Du đã hết lòng tâm huyết vẽ nên bức tranh về mùa xuân thật đẹp, có hồn và độc đáo. Chính tình yêu thiên nhiên đất nước con người đã tạo nên nguồn cảm hứng để ông say sưa với đời, lưu giữ trong kho tàng thi ca Việt Nam một bức tranh mùa xuân thật đặc biệt.
Phân tích đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du - Bài làm 4 Bài làm: Bốn câu thơ đầu gợi tả khung cảnh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Đó là hình ảnh chim én chao liệng như thoi đưa giữa bầu trời xuân trong sáng, thảm cỏ non xanh mượt mà của bức tranh xuân điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng, Màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt diệu. Tất cả hoà quyện, gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, tràn trề sức sống (cỏ non), khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa). Chữ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có tâm hồn, không tĩnh tại. Trong đoạn thơ cùng với bút pháp ước lệ vừa gợi thời gian vừa gợi không gian mùa xuân, tác giả còn dùng nhiều từ ngữ giàu chất tạo hình gợi tả màu sắc, đường nét, cái hồn của cảnh vật. Tám câu thơ tiếp gợi lên khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh. Một loạt từ ghép là danh từ, động từ, tính từ xuất hiện gợi lên không khí lễ hội thật rộn ràng, đông vui, náo nhiệt: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân (danh từ) sắm sửa, dập dìu (động từ), gần xa, nô nức (tính từ). Cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi hình ảnh từng đoàn người trẩy hội, du xuân nhộn nhịp, tấp nập. Qua cuộc du xuân của chị em Thuý Kiều, tác giả khắc hoạ hình ảnh một truyền thống văn hoá lễ hội xa xưa. Đó là lễ tảo mộ tưởng nhớ người thân đã khuất và hội đạp thanh đi chơi xuân ở chốn đồng quê tươi đẹp. Những lễ hội đó là nét đẹp văn hoá truyền thống phương Đông. Sáu câu cuối gợi tả cảnh chị em Thuý Kiều du xuân trở về. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu như bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng. Mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, cái không khí nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lắng dần. Cảnh thay đổi bởi không gian, thời gian thay đổi, và cảnh lúc này được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy: “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ gợi tả sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Từ “nao nao” như nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Đó là cảm giác bâng khuâng xao xuyến, thấm đượm một nỗi buồn man mác dịu nhẹ... Đoạn trích thể hiện nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đặc sắc của Nguyễn Du. Đó là kết cấu hợp lí theo trình tự thời gian của cuộc du xuân kết cấu ấy giúp tác giả có thể phác hoạ được toàn cảnh bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân. Tác giả đã sứ dụng nhiều từ ngữ giàu chất tạo hình những từ láy gợi hình, tính từ tả màu sắc, từ ghép... Tác giả kết hợp tài tình bút pháp tả cụ thể, chi tiết và bút pháp gợi có tính chất chấm phá, điểm xuyết.