Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Đề bài: Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân

    BÀI LÀM:
    Đây là một đoạn tả cảnh trong khuôn viên một tác phẩm tự sự lớn bằng thơ. Tả cảnh trong điều kiện đấy thường phải gắn mang nhân vật, ấy là chưa nhắc tả cảnh ngụ tình là nguyên tắc của thơ xưa. Trong những trường hợp đa dạng ấy, cảnh được nhìn từ tâm trạng, duyệt tâm cảnh, ỡ chậm tiến độ sở hữu sự khúc xạ-buồn vui theo kieu “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trích đoạn có tiêu đề Cảnh ngày xuân một mặt ko nằm ngoài các con phố biên quy phạm đó, nhưng một mặt với sự bứt phá để tự nó tạo hình một bức tranh riêng. Sự phan cảnh bởi vậy khá rõ rệt: cảnh mùa xuân, rồi cảnh lễ hội, cảnh ra về lúc lẻ hội đã tan. Cảnh trong thơ như thế là bám vào mạch thời gian, một cách thức nhìn theo chiều dọc, theo diễn biến bỗng nhiên, nhưng ví như cắt theo chiều ngang thì mỗi bước đi của thời gian đấy sở hữu 1 dòng gì trọng đại, thậm chí là dấu ấn đầu dời của người nào chậm tiến độ ớ cái tuổi cài thoa (cập kê) 1 đi ko trở lại.
    Hãy đi vào cánh thứ nhất : cảnh mùa xuân. Cảnh mùa xuân hiện ra bằng bốn câu thơ nhưng hoàn toàn không cùng nằm trên 1 mặt bằng cảm nghĩ. 2 câu dặc tả cảnh bỗng dưng là ở cặp câu lục bát thứ 2 “Cỏ non…”, còn cặp câu trước ngừng thi côngĐây chỉ là chuyển cảnh. giả dụ trong khoảng cặp câu “Cỏ non…” ta nhận ra một loại nhìn ko gian thì trước Đó là cái nhìn thời kì về “Ngày xuân con én…”. 1 khi đã xác định sự khác nhau, ở cấp độ trường nhìn thì sẽ ko nhầm lẫn nữa. chẳng hạn không nên hiểu “con én đưa thoi” là những cánh chim én sở hữu thật vẫn rộn rã bay lượn giữa bầu trời tinh khiết. “Con én” chỉ nên hiểu là con thoi. thời gian đi rất nhanh, mang mùa xuân, có chiếc nhìn của tuổi trỏ, nó càng nhanh vì tuổi xanh và mùa xuân là thời cơ một lần. mẫu nhìn của thi sĩ thấm đẫm tàm lí của người trong cuộc. Bới thế mới thấy nhanh (chủ quan hoá khách quan – ngày mùa xuân cũng 24 giờ như ngày mùa hạ…) và thấy tiếc nuối : “Thiều quang quẻ chín chục dã ngoài sáu mươi”. Sau này, lúc “cái tôi” của thi sĩ khái quát không còn bị buộc ràng nữa (ví dụ như vào đạo lí, vào kỉ cương), Xuân Diệu cũng 1 tâm cảnh đó, tuy cách thức đề cập có “mới” hơn : “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân tướng là 1 điều nghịch lí nhưng nó mang thật trong tâm trạng con người tuổi trẻ mọi thời.
    Sáu mươi” trên “chín chục”, hơn thế “đã ngoài” trái ngọt nhạt mùa xuân đã đi hết 2 phần, sốt ruột biết bao! Do sự tiết chế ngôn trong khoảng, cũng là do tư cách của người đề cập chuyện, Nguyễn Du chẳng thể kêu lên “Nhanh mang chứ, vội vàng lên với chứ” như Xuân Diệu sau ông. Ngay trong Truyện Kiêu, thời kì đại quát là đi rất nhanh nhưng mỗi lần một khác, không lần nào giống lần nào. “Sen tàn cúc lại nở hoa – Sầu dài ngày ngắn, đông đã sang xuân” thì đâu phải là chậm. Nhưng chậm triển khai là cái khắc khoải đợi trông loại gì chưa tới. Còn ở đây mùa xuân dang hiện diện :
    Cỏ non xanh tận chân trời
    Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
    hai câu thơ tả cảnh mùa xuân này thật là tuyệt tác, nếu như đặt nó trong vườn thơ trung đại “Thì treo giải nhất chi dường cho ai”. với hai cách thức nhìn vé bức tranh đấy. chiếc nhìn thứ nhất của người khách qua nhịn nhường, của con mắt “thế nhân” : Thảm cỏ xanh quá, nó khiến cho nển cho bức tranh xuân. Trên mẫu nền kia, điểm xuyết một đôi bông hoa lê trắng. Màu sắc thần kì hài hoà. bí quyết nhìn thứ 2 của người tri âm : chỉ cẩn 1 nét vẽ chậm tiến độ thôi, câu thơ đã mang gì ngờ ngạc trước một màu xanh, đáng ra là 1 biển xanh, bát ngát độ rộng. từ hiện thực Nguyễn Du đã gia công, đã tái tạo hiện thực, đã thổi vào chậm tiến độ ngọn gió vô hình của linh tính để tạo ra sự sống. Hàn Mặc Tử sau Nguyễn Du có kể đến “sóng cỏ” chính là 1 cái nhìn đồng tâm cảnh sở hữu Nguyễn Du (“Sóng cỏ xanh tươi gọn đến trời”). chậm tiến độ là loại hay toàn khối được tách ra trong khoảng cội, từ cành, lúc chúng ta cầm trên tay một cái lá đơn sơ mà đẫn đờ nhìn ngắm. Sau Đó mới đến loại hay của sự hội nhập mang “cành lê trắng điếm…”. mẫu tài cũng là mẫu tình của Nguyễn Du ở dây là đảo ngược 1 phương pháp tiêu dùng trong khoảng thông dụng : biến “điểm trắng” thành “trắng điểm”. Chỉ thay đổi một tí chậm triển khai thôi, công tác đơn giản mà ngoài Nguyễn Du, ko ai khiến được. tinh khiết tạo thơ ca, người ta mang thể “chết” vì 1 trong khoảng mà “sống” cũng vì một từ là thế. giả dụ viết “điểm trắng” thì không sai, ý thơ, âm điệu thơ không hể đổi thay. Nhưng Đó là bí quyết viết “non tay”, bí quyết vẽ tranh của nghệ nhân bắt chước mà chưa có chiếc “thần”. Viết “trắng điểm” tạo nên yếu tố bất thần, cành lê như đem vào màu trắng, màu sắc của sự tinh khôi bằng bàn tay vô hình của tạo hoá. Nó đang kỹ càng tô điểm, ko cầu kì gọt giũa mà rất ý nhị, tinh vi. “Điểm” ở đây là điểm xuyết, tức thị thêm vào, chí một chút thôi mà bộ mặt của cành lê tưởng ko còn là chính nó. “Trắng điểm” và “điểm trắng” chỉ hơn nhau một sự lung linh nho nhỏ mà đã là 2 thế giới rất xa nhau. Đọc 2 câu kiệt tác của Nguyễn Du, tuy không tả mặt biển mà ta cứ như dập dờn say giữa những con sóng đung dưa cỏ xanh hoa trắng.
    Mùa xuân đối sở hữu một năm giống như bông hoa phong nhuỵ mơ tưởng, ấp ủ biết bao, hi vọng biết bao, nó là một nụ cười chúm chím, 1 thứ “hương thầm”.
    Tám câu thơ nối tiếp là quang cảnh lẻ hội “Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”. Cặp câu lục bát mở màn (giống như cấu tứ toàn đoạn), ngừng thi công. Đây là lời dẫn. hai câu này ko với dụng công như hai câu “Ngày xuân…” đã được Phân tích ở trên. 1 ngọn gió lướt đi và đây là những dòng gì đã đến :
    Gần xa nô nức yến anh,
    Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
    Đọc qua, tưởng như 2 câu thơ đề cập việc, vì nguyên tố này không hề ko mang : hành trang, phương tiện đi trục đường, có chị với em. Nhưng không hề. Việc chuẩn bị kèm theo không thể ko làm, nhưng Đó là những chất liệu sinh hoạt đời thường chứ không hề chất liệu của thơ. Điều đáng nhắc nhất là niềm vui tăng tả, rộn ràng, một hạnh phúc lớn lao chưa từng mang của các chị, các em đi dạ hội lần đầu giữa 1 mùa xuân kép : xuân của bỗng nhiên, xuân của lòng người. Được hoà vào mẫu ko khí đặc thù “nô nức yến anh”, việc “sắm sửa” của mấy chị em cũng là ngày hội. Tết vốn là vui (vui như tết), nhưng còn vui hơn là ở những người được “sắm sửa” để mang câu đối đỏ, bánh chưng xanh… trong những ngày giáp tết. Chưa tới hội, 2 chị em như đã mở hội trong lòng, vội vã ngây ngất như lâng lâng bay bổng. Tưởng như không mang âm thanh nào ngoài công việc, nhưng tâm hồn họ thì quả thật đang đựng tiếng, hát ca. chậm tiến độ là tính cá thể. Tính cá thể ấy đã không còn lúc họ mất hút đi trong “Dập dìu tài tử giai nhân”. đến đây xuất hiện một thứ nghệ thuật khác : nghệ thuật trình bày đám đông. Tính quần thể của cộng đồng là 1 thứ chân dung ý thức : chân dung lễ hội. ko rõ 1 bộ mặt người nào, nhưng người nào cũng thấy mình trong Đó, trong dòng phấn khích mà không 1 ngày nào trong nãm với được. “Lễ” thực ra chỉ là loại cớ, còn “hội” mới là mục đích rút cục. “Tro tiền giấy bay” hoặc “Thoi vàng vó rắc” chẳng qua là nghi tiết bên ngoài của những kẻ hành hương. Còn phần đông dồn cho sự náo nhiệt của giai nhân, a ma tơ, ngựa xe, lượt là :
    Dập dìu tài tử giai nhân,
    Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
    Lễ hội ấy thực ra năm nào chẳng thế. Nhưng với những con người tuổi xanh, nó chỉ háo hức đến cuồng nhiệt 1 lần. thời kì như loại chảy trôi xuôi nhưng những ấn tượng mặn mà làm sao quên được. các từ láy, lổng trong phép đối hoà nhập hài hoà tạo được những ấn tượng khôn nguôi. Phép đối xứng cũng biến hoá, khi dồn lại giữa a ma tơ có mĩ nhân, khi tách giãn ngựa xe với quần áo, nhưng lúc nào cũng hình thành mẫu thế bè đôi, khi ẩn lúc hiện trong khoảng sức lôi cuốn của một hấp lực mơ hồ. “Dập dìu” là một trong khoảng láy. “Dập dìu” theo nghĩa của tự điển là cộng nhau vui chơi, chỉ đông người sôi động. Nhưng trong ngữ cảnh này nó như khúc hát dập dìu, mau thưa, nghĩa là sự xuống lên theo trật tự của những con sóng nước, nó buông thả 1 cách thức hồn nhiên như chịu ảnh hưởng của một sức lôi cuốn vô hình sai khiến cho. đấy là 1 cơn say như các người mộng du say trầu, say thuốc, còn ở đây ngừng thi công. Đây là say tình giữa nam và nữ. Họ có được nhau và cộng nhau tận hưởng một niềm khoái lạc ý thức vừa quý phái vừa rất dỗi hồn nhiên. Đằng sau xiêm áo, ngựa xe là các sự rung động dầu đời đựng cánh.
    Phải thế chăng, mà sáu câu tả cảnh chị em Thuý Kiều ra về là loại lần thần tiếc nuối “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. 2 chữ “thơ thẩn” ở đây mang sức gợi rất hay.
    Tà tà bóng ngả về tây,
    Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
    “Dan tay” tưởng là vui, nhưng thực ra là sự đồng cảm sẻ chia dòng buồn không biết kể. Nó hợp sở hữu khung cảnh ánh sáng nhạt nhoà “Mặt trời gác núi chiêng đà thu không”. yên ổn dần xuống, tan dần đi cái náo nức mê say của 1 ngày, của một thời ko hoàn toàn là trẻ dại nữa. Nó bâng khuâng, man mác xiết bao. Bốn câu tiếp theo là sự khêu gợi tâm can mang những trái tim đa cảm :
    Bước dần theo ngọn tiều khê,
    Lần xem phong cảnh có bê thanh thanh.
    Phút dịu êm của cảnh vật tạm lấp dần khoảng trống rất khó nguôi vơi của nỗi buồn tiếc nuối. Vừa khép lại vừa mờ ra từ cái nước, nhịp cầu 1 tâm trạng chông chênh. “Nao nao cái nước uốn quanh”. cái nước tâm can san sẻ ấy, nhịp cầu nên thơ như giấc mộng hiện lên đó ru vỗ lòng người khiến dịu lại chiếc xốn xang từ ngày hội bước ra. “Nao nao” diễn đạt sự xúc động tới rưng rưng “Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người” (Truyện Kiều). Đó vừa là dư âm của chiếc đã qua, vừa là sự lấy đà chuyên sang 1 tâm cảnh mới : gặp nấm mộ Đạm Tiên. Tả cảnh, tả tình như thế là khéo, chuyến ý như thế là rất tinh tế, tự nhiên. Người đọc luôn luôn có cảm giác đi trên một cái sông, nhưng mỗi khúc, mỗi chặng tuyến phố 1 khác. Chuyện thơ vừa khắc sâu, vừa nuôi dưỡng hứng thú người đọc như thế là ko dễ xưa nay, nhất là mang tác phẩm Truyện Kiều cách chúng ta 2 trăm năm với lẻ.