Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió (Don Ki-ho-te của Xec-van-tec)

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió (Don Ki-ho-te của Xec-van-tec)


    6.jpg

    I. Tác giả, tác phẩm

    1. Tác giả:

    – M.D. Xec-van-tex là nhà văn lớn của Tây Ban Nha trong thời đại Phục hưng. Ông sinh năm 1547 tại ngoại ô thủ đô Ma-đơ-rit và mất năm 1616. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc bậc trung, cha làm nghề thầy thuốc. Sau khi học xong đại học, năm 22 tuổi, ông sang Ý làm thư kí riêng cho giáo chủ Ac-ca-vi-na, Năm 23 tuổi ông gia nhập quân đội; bị thương cụt tay trái trong trận thủy chiến với quân Thổ Nhĩ Kì vào năm 1571, rồi bị bắt làm tù binh mãi đến năm 1580 mới được giải thoát. Từ đó về sau, gia cảnh sa sút, ngày một trở nên bần cùng cho đến lúc qua đời.
    Xec-van-tec sáng tác khá nhiều, có tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ và trường ca,… song ít thành công. Chỉ có thiên tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” được viết hơn 10 năm ười (1605 – 1615) đã làm cho Xec-van-tex lừng danh thiên hạ…

    2. Tác phẩm:

    Tiểu thuyết “ Đôn Ki-hô-tê” gồm có 2 phần, chia làm 15 chương.
    Truyện kể về cuộc đời chàng quý tộc nghèo Kin-ha-đa, mụ mẫm và cuồng vọng vì mô đắm các truyện hiệp sĩ. Lúc nào anh ta cũng tưởng mình là một hiệp sĩ vô địch, ôm mộng chiến công, diệt ác, phò nguy cứu đời. Với bộ áo giáp tàn tạ, thanh gươm gỉ sét, con ngựa gầy gò cùng vơi giám mã Xan-chô Pan-xa, hai thầy trò rong ruổi ngược xuôi, mong ước lập nên bao kì tích, chiến tích. Trận đánh nhau với cối xay gió là đỉnh điểm sự cuồng vọng của chàng hiệp sĩ xứ Man -cha.
    Sau những năm tháng nếm đủ mùi mặn ngọt, chua cay thời chinh chiến, kiệt sức về những cuộc phiêu lưu, chàng hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-cha trở lại nguyên dạng một ông lão nghèo hèn, gầy gò, ốm yếu Kin-ha-đa. Đến lúc này, lão mới tỉnh ngộ về sự tai hại của những truyện kiếm hiệp hoang đường. Lão viết di chúc trước lúc qua đời.
    Nhận xét: Xuất hiện trong thế kỉ 16, tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê được coi là một kiệt tác văn chương. Tác phẩm đã chế giễu tàn dư cửa lí tưởng hiệp sĩ phong kiến lỗi thời, báo hiệu sự xuất hiện của thời đại Phục hưng với những con người mới, tính cách và nghị lực mới, sáng ngời chủ nghĩa nhân văn.

    II. Phân tích ý nghĩa truyện:

    Cuốn tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” là một kiệt tác sáng ngời chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, là một trong những tác phẩm vĩ dại nhất thời Phục hưng. Nó đã làm tên tuổi Xec-van-tex trở thành bất tử, sống mãi trong lòng nhân loại cùng với những tuổi lừng danh như Sêc-xpia, Ra-bơ-le… vị trí vinh quang của những người đặt nền móng cho nền văn học thời đại mới.
    Xec-van-tex đã viết cuốn tiểu thuyết này trong vòng 10 năm (1605 – 1615). Ông viết trong nghèo khổ và nghiệt ngã của cuộc đời. Khi tập II ra đời, cuốn tiểu thuyết trọn bộ thì chỉ một năm sau nhà văn qua đời.
    Đôn Ki-hô-tê xuất thân là một lão quý tộc nghèo ở nông thôn lên là Ki-ha-đa. Ngươi lão gày gò, cao lênh khênh và trạc năm chục tuổi. Lão say mê các truyện hiệp sĩ phiêu lưu, đầu óc lão ngày một trở nên mụ mẫm, chìm đắm trong mộng tưởng hão huyền. Lão mơ ước trở thành một hiệp sĩ giang hồ đi khắp nước Tây Ban Nha, phò đời cứu nguy, diệt trừ lũ khổng lồ yêu quái, thiết lập trật tự và công lí, để lại bao chiến công oanh liệt cho đời.
    Con ngựa gầy được lão phong cho cái tên rất oai: chiến mã Rô-xi-nan-tê. Lão tự xưng là hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-tra. Anh nông dân lùn, cục mịch được lão phong tước : giám mã Xan-chô Pan-xa. Đã là hiệp sĩ thời thượng thì phải có tình nhân. Lão nhớ ngay một phụ nữ mà lão thầm yêu trộm nhớ thời còn trai trẻ, lão liền ban cho ả nhà quê này một cái tên rất quý tộc, mĩ miều: Công nương Đuyn-xi-ne-a vùng Tô-bô-xô. Lão làm lễ thụ phong trước ngày lên đường chinh chiến. Có một chi tiết khá thú vị là trong lễ thụ phong này tại quán trọ, hai ả gái điếm được nhà hiệp sĩ xứ Man-tra ban tước thành 2 công nương vô cùng tôn quý. Hài hước nhất là lão tìm được binh khí, giáp trụ của tổ tiên đã han gỉ, rồi lão sửa chữa, đánh bóng lại để tự vũ trang cho mình.
    Sau trận đánh nhau với bọn lái buôn vì họ không chịu nhận công nương Đuyn-xi-ne-a là đẹp nhất trần gian, Đôn Ki-hô- tê bị bọn chúng nện một trận nhừ tử, bị bắt đưa về làng m mộng chiến công mới. Lần này lão đánh nhau với lũ cối xay gió là một bi hài kịch, chế giễu những kẻ ngông cuồng, hão huyền tột cùng của lão nhà quê.
    Trận đánh diễn ra vào lúc ban trưa. Sau nhiều ngày lang thang, một ngày, trên cánh đồng vùng Montiel, hiệp sĩ xứ Man-tra đã nhìn thất những tên “khổng lồ hung tợn” đang há hóc mồm, cánh tay vươn dài ( thực ra là những chiếc cối xay gió). Lão tự huyễn hoặc mình rằng trách nhiệm của lão là phải kết liễu đời lũ khổng lồ yêu quái này, trước là để thu chiến lợi phẩm, trở nên giàu sang phú quý, sau nữa là quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất và để “phụng sự Chúa”. Phải công bằng mà nói rằng, tuy lão có “nhìn gà ra vịt” nhưng mục đích chiến đấu là rất cao đẹp.
    Lão ăn nói rất hùng hồn. Lúc thì chê bai quan giám mã: “Nếu anh sợ thì gãy mau mau lánh ra xa mà cầu kinh trong lúc ta đương đầu vào trong một cuộc chiến tranh gay go và không cân sức. Lúc xung trận, lão đằng đằng sát khí: “Lũ súc sinh kia, không được chạy trốn! Lúc thì oai phong, lẫm liệt cảnh cáo
    Cuộc giao chiến giữa người với vật được tác giả miêu tả bằng giọng văn hài hước, hóm hỉnh. Vừa lúc nổi lên một làn gió nhẹ và các cánh quạt lớn của những chiếc cối xay gió bắt đầu chuyển động, Don Quixote liền nói: “Dù cho bọn ngươi có vung nhiều cánh tay hơn cả gã khổng lồ Briaro, các ngươi cũng sắp phải đền tội”. Tư thế của lão hiệp sĩ vô cùng dũng mãnh, hiên ngang.
    Nói xong, ông ta nhiệt tình thành tâm niệm cầu mong “công nương” Dulcinea của mình cứu giúp cho trong lúc nguy nan này rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc con ngựa phi thẳng tới chiếc cối xay gió gần nhất ở trước mặt. Ông ta đâm mũi giáo vào cánh quạt, vừa lúc gió làm cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành. Đây là hình ảnh lão hiệp sĩ lừng danh trong chiến địa : “Cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh”. Và lúc này giám mã thúc lừa chạy tới cứu thì thấy chủ tướng đã nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng
    Đoạn văn hài hước, hóm hỉnh khẳng định tài năng của Xec-van-tec. Nghệ thuật dựng cảnh và kể chuyện đạt đến mức độ điêu luyện làm hiện lên một trận đánh thời trung cổ: có dàn trận, có tuyên bố lí do, có đấu khẩu lúc giao phong, có cảnh đánh nhau dữ dội, quyết trận sinh tử, bãi chiến trường sau trận đánh hoang tàn. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê mới là “người hùng” đích thực sống trong hão huyền. Sự mụ mẫn của lão đã được đẩy lên đến cực điểm: xay gió mà lão cho là gã khổng lồ. Ngôn ngữ khoát lác, trông giống tuyên ngôn. Lão cũng thét vang lúc xung trận. Cử chỉ, điệu bộ và hanh động cũng rất tự tin, đàng hoàng, cực kỳ oai phong, lẫm liệt! Đúng là coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
    Hình ảnh Đôn Ki-hô-tê nằm không cựa quậy trên mặt đất trước cặp mắt của giám mã Xan-cho Pan-xa là nét vẽ biếm họa đặc sắc nhất, có giá trị chế giễu tầng lớp hiệp sĩ thời trung cổ đã lỗi thời! Người đọc cũng không nhịn được cười khi lão hiệp sĩ cầu cứu tình nương trước lúc giao đấu! Một hành động ngây ngô đến nực cười, không thể nào tin được rằng nó xuất phát từ một người trưởng thành.
    Câu chuyện giữa hai thầy trò sau trận đánh nhau với cốì xay gió cũng vô cùng thú vị. Chết mà nết không chừa! Thất bại bi thảm lại nhục nhã mà vẫn còn khoác lác. Trước lời an ủi của quan giám mà, Đôn Ki-hô-tê đã chĩ cho anh béo lùn biết rằng cái nghề cung kiếm “luôn luôn biến chuyển”. Nghĩa là sự thắng, bại là chuyện bình thường. Nguyên nhân thất bại theo Đôn Ki-hô-tê rất bất ngờ vì lão pháp sư Phơ-re-xtôn đã đánh cắp mất “sách vở” bảo bối của lão. Hắn ta “thâm thù ta”, hắn đã tước mất phần vinh quang chiến thắng của ta!” Đúng là khẩu khí của hiệp sĩ xứ Man-tra lừng danh thiên hạ! Mội thất bại của lão đều là do lỗi của người khác. Lão luôn đúng. Không có lí do gì có thể khiến lão làm sai cả. Một sự hoang tưởng về năng lực bản thân đến độ mất cả lí trí.
    Thương cho con ngựa gầy nhom “bị toạc lửa lưng” vẫn phải cõng chủ. Đôn Ki- hô-tê quyết định đi về phía cánh rừng và tiếp tục hy vọng “sẽ gặp được nhiều chuyện mạo hiểm khác” để mà thi thố tài năng. Hiệp sĩ tỏ ra rất buồn phiền về cái giáo bị gãy. Cái vốn sách vở kiếm hiệp lại ru lão ta vào giấc mộng hào huyền. Lão nhắc tới hiệp sĩ Tây Ban Nha ngày xưa là Va-gax giữa trận đánh, gươm bị gãy, đã nhổ cây sồi làm vũ khí tiêu diệt quân Mô-rô, nhờ thế mà trở nên bất tử và bất diệt “Hiệp sĩ diệt địch”, làm rạng rỡ cháu con đời đời. Kể lại chuyện ấy, Đôn Ki-hô-tê muôn nói lên chí hướng mình muôn theo gương người xưa, cũng sẽ nhổ cây sồi để diệt địch, sẽ lập lên “những chiến công phi thường” mà quan giám mã sẽ là người có diễm phúc được mục kích! Qua đó, ta thấy Đôn Ki-hô-tê vẫn kiêu hùng, tự tin, đầu óc anh ta quá mê muội, khoác lác đến cực độ!
    Khi giám mã “thật thà” nhắc lại sự thất trận vừa qua, cái ngã chắc hẳn “làm ngài vẹo vọ hẳn đi” thì chàng hiệp sĩ hồn nhiên trả lời: “Đúng thế! Và nếu không kêu đau là vì các hiệp sĩ gian hồ có bị thương cũng không được rên rỉ, dù sổ cả ruột ra ngoài”. Đó cũng là một nét rất “anh hùng” của Đôn Ki-hô-tê! Khi Xan- chô tâm sự là nếu có bị gai đâm cũng kêu lên thi ông chủ tài ba đã “không nín được cười”, đĩnh đạc nói với giám mã “cứ việc rên la” vì “cho tới nay chưa thấy sách kiếm hiệp nào ngăn cấm cả”.
    Phần cuối là chuyện ăn, chuyện ngủ của hai thầy trò hiệp sĩ. Hai thầy trò cùng đi giang hồ, với “lý tưởng” dẹp bất công, cứu nguy phò đời nhung trong tâm hồn, tính cách là hai thế giới riêng biệt! Đến giờ ăn, Đôn Ki-hô-tê không hiểu vì sao mà “chưa muốn ăn”. Còn Xan-chô, sau khi được phép chủ, ngồi thoải mái trên lưng lừa “ăn một cách khoái trá”, nghiêng bầu rượu, quên cả những lời hứa hẹn của chủ phong anh ta làm thông đốc sau này, vừa vui vẻ suy ngẫm về cái nghề đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu “tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Đó cũng là nét vẽ hài hước về sự “cái miếng ăn gần, cái ước mơ xa” ở đời!
    Đêm đến, hai thầy trò nằm dưới gốc gây. Giám mã sau khi đánh chén no sau “làm một giấc tới sáng”. Sáng dậy vừa mở mắt ra đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì bầu rượu đã vơi đi, mà quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy! Trái lại, Đôn Ki-hô-tê thì suốt đêm thao thức. Chàng đã bẻ “một cành 50 khô” lắp vào cán gẫy làm thành một ngọn giáo! Chàng chằn chọc thâu đêm vì thương nhớ tình nương Đuyn-xi-nê-a. Chiều qua đã nhịn, sáng nay lại không ăn, chẳng phải là Đôn Ki-hô-tê bị đau nên không ăn được, mà chàng đang sống trong mộng mị, vì chỉ “nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi!”.
    Nhân vật giám mã Xan-chô là một nhân vật phụ, một nét vẽ bổ trợ nhưng rất sông động. Một mặt, nó có giá trị làm nổi bật tính cách ngông cuồng, mụ mẫm, ôm ấp những mộng tưởng hão huyền của Đôn Ki-hô-tê về cuộc đời hiệp sĩ, mặt khác thể hiện một quan niệm sống phác thực, hồn nhiên, giản dị của những người dân quê yêu đời, thiết thực.
    • Tổng kết:
    Đánh nhau với cối xay gió là một trang đời, nêu bậc một trong những “chiến công oanh liệt” của Đôn Ki-hô-tê hiệp sĩ xứ Man tra đã ghi vào sử sách! Xec-van-tex đã sử dụng thủ pháp trào lộng, phóng đại và tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng cảnh, đã làm lên một trang hiệp sĩ Tây Ban Nha thời Trung cổ đã lỗi thời! Đằng sau câu văn, dòng chữ, ta luôn luôn bắt gặp nụ cười hóm hỉnh của Xec- van-tex. Đằng sau nụ cười chế giễu của nhà văn là sự đề cao trong một chừng mực nhất định tình yêu tự do, bình đẳng, sông thiết thực yêu đời, mang tính nhân văn.