Phân tích hình ảnh những người lính lái xe không kính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật Mở bài: Phạm Tiến Duật là một trong những tác giả tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng điệu ngang tàng, tinh nghịch mà sôi nổi tươi trẻ, đã tái hiện được hình ảnh người lính Trường Sơn và không khí của thời đánh Mĩ gian khổ ác liệt mà phơi phới niềm tin. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách này. Tác giả sáng tạo một hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính chiến sĩ lái xe ở chiến trường Trường Sơn: hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi. Thân bài: Hình ảnh những chiếc xe không kính được nhà thơ chú trọng khắc họa bằng bút pháp tả thực hết sức sinh động. Lý do khiến cho những chiếc xe không có kính là bởi “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Hai câu thơ đầu rất gần với câu văn xuôi, có giọng thản nhiên, một loạt từ phủ định không có – không phải – không có để khẳng định về những chiếc xe có kính. Không những thế, chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe không kính bị hủy hoại nghiêm trọng hơn ở hình ành: “không có kính, rồi xe không có đèn”, “không có mui, thùng xe có xước,” Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ. Đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn. Bên cạnh những chiếc xe không kính, hình ảnh những chiến sĩ lái xe hiện lên hiên ngang bất khuất trong tư thế ung dung, hiên ngang: “Ung dung buồng lái ta ngồi, Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái” Đây là lời kể thay lời giới thiệu về đoàn xe. Ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Những chiếc xe kì lạ mà thật anh hùng đang vượt qua những chặng đường nguy hiểm có quân thù đánh ác liệt. Người chiến sĩ vừa nhấn ga cho xe lăng bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội. Những câu thơ tả thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, xe lại chạy nhanh nên người lái phải đối mặt với biết bao khó khăn, nguy hiểm, nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là “con đường chạy thẳng vào tim”, rối sao, rồi cánh chim đột ngột, bất ngờ “như sa”, “như ùa” vào buồng lái – cảm giác về sự rơi rụng, va đập, quăng ném rất rõ ràng. Nếu không trải qua thực tế, có lẽ nhà thơ không viết nên những câu chữ sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm được cảm giác chân thật như vậy. Đó là cảm giác, ấn tượng đầy căng thẳng, đầy thử thách. Song, người chiến sĩ không run sợ hoảng hốt. Trái lại, tư thế của các anh vẫn hiên ngang, tinh thần cảu các anh vẫn vững vàng “ung dung”, “nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng”. Những điệp từ “nhìn” “nhìn thấy” “thấy” cứ nhấn đi nhấn lại, biểu hiện sự tập trung cao độ của người lái. Trong khó khăn, các anh vẫn bình tĩnh, tự tin, nêu cao tinh thần trách nhiệm, quan tâm, gan góc đưa hàng ra tiền tuyến. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút lăn bánh trên đường. Câu thơ có chỗ nhịp nhàng, trong sáng , như văng vẳng tiếng hát vút cao, vui vẻ. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cảlà hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn. Cuộc chiến vẫn còn dài, những gian nan hãy còn ở phía trước. Thế nhưng, người lính bất chấp hiểm nguy, gian khổ, vững chắc tay lái, đưa xe qua mọi nẻo đường: “Không có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”. Vẫn cái âm điệu nhẹ nhàng, trong sáng ấy, 2 khổ thơ tiếp theo đã biểu hiện rõ nét tâm tư, tình cảm của người chiến sĩ. Nhà thơ miêu tả những khó khăn, thử thách ập tới cụ tể, trực tiếp “bụi phun tóc trăng” “mưa tuôn, mưa xối” – hậu quả tất yếu của những chiếc xe không có kính. Trước thử thách, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Cách nói “ừ thì” gần với lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi, toát lên một thái độ chấp nhận đương đầu với khó khăn. Hơn nữa, họ còn cười đùa, hứa hẹn quyết tâm vượt gian khó, hiểm nguy “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng, như những bánh xe lăn trên đường. Thanh điệu phối hợp khá kinh hoạt : bằng – trắc: “phi phèo chăm điếu thuốc”, trắc bằng : “mặt lấm cười ha ha” và lại bằng – trắc “trăm cây số nữa”,. và cuối đoạn là câu thơ 7 tiếng với 6 thanh bằng “Mưa ngưng gió lùa vào khô mau thôi”gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung, rất lạc quan, thanh thản. Tác giả đưa ra những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc” –“nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” và ý nghĩ táo tợn “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” làm cho câu thơ rộn rã, sôi động, thể hiện khí thế hối hả, hăng say, sôi nổi của đoàn xe trên đương đi tới. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần bận tâm, lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời Ở người lính lái xe, tình đồng đội, đồng chí gắn kết trên từng đoạn đường xe chạy. Đối với các anh, mọi người lính đều là anh em đồng chí cả. Ở đâu có con người, ở đó có gia dình. Gia đình trong trái tim người lình là dân tộc, là đất nước: Những chiếc xe từ trong bom rơi Ðã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Tình cảm gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau rất độc đáo. Không cầu kì, kiểu cách, chưa nghĩ đến sự quen biết hay xa lạ, các anh đều thấy đã thân quen từ lâu: “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Lúc dừng chân, các anh trò chuyện, ăn uống, nghỉ ngơi thật thoải mái, xuềnh xoàng, vui vẻ như anh em một nhà “chung bát đũa” “võng mắc chông chênh”. Nghỉ ngơi thoáng chốc, họ lại tiếp tục hành quân: “Lại đi, lại đi…”, tiếp tục nhiệm vụ trong niềm vui lớn. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại, giữa tình cảm cá nhân và tình cảm lớn của dân tộc. Chưa lúc nào người lính nghĩ đến bản thân mình. Khi đất nước chưa đọc lập, nhân dân miền Nam còn đau thương dưới gót giày xâm lược của kẻ thù thì họ chưa yên được. Tình yêu thương thúc giục họ lên đường, cỏ vũ họ tiến bước. Dẫu bom rơi, đạn nổ, cái chết cận kề cũng không khiến họ rung sợ. Bởi ở người lính, lý tưởng sống vì nhân dân, vì đât nước giúp họ vượt lên trên tất cả, kể cả cái chết: Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Khổ thơ cuối cùng vẫn giọng thơ mộc mạc, gần với lối sống nói thường, như văn xuôi. Nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt với của người chiến sĩ vận tải. Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị: 2 câu thơ đầu dồn dập những mất mát, khó khăn. Điệp ngữ “không có” nhắc lại 3 lần như nhân lên những thử thách khốc liệt. Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim” khắc họa hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật đắm sâu, trĩu nặng. Tỏa sáng chói ngời trong cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Gốc rễ phẩm chất anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, ngưng đọng ở trái tim gan góc, kiên cường, và chan chứa tình yêu thương này. Câu cuối là “nhãn tự” bật sáng chủ đè, tỏa sáng vẻ đẹp của người lính Trường Sơn. Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Nhà thơ khai thác triệt để chất liệu của hiện thực đời sống kết hợp với từ thơ mới lạ tạo ấn tượng sâu đậm về hình ảnh người chiến sĩ lái xe kiên cường, tươi trẻ. Giọng thơ ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả rất riêng của Phạm Tiến Duật. Chất thơ ở đây là từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ. Kết bài Cùng với “Lửa đèn”, “Trường Sơn Đông – Trướng Sơn Tây”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có một sức sống mạnh mẽ. Chất thơ ấy tỏa ra từ thực tế chiến đấu, từ niềm vui sống của con người thời đại chống Mỹ. Ở Phạm Tiến Duật, ta thấy chất giọng rất trẻ, rất lính. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính là nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Đó cũng là giọng điệu chung của nền văn học thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước: Sẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phưới dậy tương lai.