Gợi ý làm bài: Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, tên nhân vật, đặc điểm nổi bật của nhân vật Thân bài: 1. Giới thiệu chung về tác giả tác phẩm 2. Diễn biến tâm trạng của ông Hai: a. Ông Hai trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: + Ông hay khoe làng + Tản cư, ông hay nhắc về Làng + Ông hay ra phòng thông tin nghe tin tức + Khi nghe tin thằng Tây bị đánh ruột gan ông múa cả lên b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: + Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân,… + Ông cúi gằm mặt xuống mà đi + Về nhà, nằm vật ra giường + Ở nhà nơm nớp lo sợ + Tâm sự với con trai út + Một lòng với cách mạng c. Tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính: + Mặt ông vui rạng rỡ +Mua quà cho con +Đi đâu cũng khoe nhà bị đốt (phi lý mà hợp lý) 3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật. Liên hệ mở rộng về tình yêu quê hương, đất nước Nghệ thuật: + Xây dựng tình huống truyện độc đáo + Miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc + Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ nhiều Nội dung: + Sự chuyển biến của người nông dân trong tình yêu quê hương, đất nước thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp * Liên hệ mở rộng: Tác phẩm văn học (“Quê hương” – Tế Hanh…) hoặc thực tế cuộc sống Kết bài: + Khái quát : Tình yêu nước không xa xôi, khó hiểu, mà nó đơn giản chỉ là yêu làng, yêu quê hương nơi ta sinh ra và lớn lên + Khẳng định tình yêu làng, yêu nước của ông Hai nói riêng của người nông dân nói chung + Liên hệ bản thân.
Bài văn mẫu: Mở bài: Kim Lân quê ở Bắc Ninh, là cây bút chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác từ trước Gách mạng tháng Tám. Những cảnh ngộ của người nông dân và sinh hoạt làng quê là đề tài sáng tác chủ yếu của ông. Truyện ngắn Làng được viết năm 1948, in trên tạp chí Văn nghệ (số 1), là một tác phẩm thành công của văn học Việt Nam thời ki đầu cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai với tình yêu làng đặc biệt của mình. Thân bài: Ông Hai là người rất yêu làng của mình, thường khoe làng để khỏa lấp nỗi nhớ về những tháng ngày hoạt động kháng chiến cùng anh em, đồng đội. Ông không chỉ là một dân làng mà còn là một phụ lão, một chiến sĩ đã từng tham gia đánh giặc giữ làng mà nay vì phải rời làng đi tản cư. Ấy vậy mà cái tin làng Chợ Dầu theo giặc lại truyền đến quá đột ngột trong lúc tâm trạng của ông đang phấn chấn vì những tin tức kháng chiến vừa nghe được ở phòng thông tin. Vậy nên, cái tin ấy khiến cho “co ông lão nghẹn ẳng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. Một lúc lâu, ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ,… ”.Ông già vui tính, hay chuyện, mong ngóng tin tức của làng mình mà lúc này phải “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi cúi gằm mặt đi thẳng. Chỉ vói một vài câu văn ngắn, tác giả đã cụ thể hoá sự sững sờ, ngạc nhiên đến mức hốt hoảng của ông Hai khi nghe tin dữ – một cái tin động trời mà trước đó ông không thể tin, không thể ngờ lại có thể xảy ra như thế. Những câu nói mỉa mai, căm ghét của người đàn bà cho con bú về làng Chợ Dầu vẫn đeo đẳng ông Hai, khiến ông thật ê chề, đau khổ như chính mình đang bị mắng vi ông là người làng Chợ Dầu – người của cái làng theo giặc ấy! Vừa về đến nhà, ông Hai “nằm vật ra giường”; trong đau khổ, nhục nhã, ông nhìn đàn con chơi đùa thật đáng thương ở sau nhà. Bất giác ông nghĩ đến sự hắt hủi của mọi người dành cho những đứa trẻ của cái làng Việt gian này: ” nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? ”. Thương con, ông càng căm ghét bọn dân tróng làng đã chạy hùa theo giặc, đã làm nên những chuyện đớn hèn, nhục nhã tổn hại đến danh dự của làng. Đó chính là tội phản bội, tội bán nước thật không thể dung thứ. Có lúc, ông cảm thấy chuyện tày đình này thật khó tin vì có biết bao tấm gương đã từng sống mái với kẻ thù, liều chết để hoàn thành sứ mệnh chung của cả dân tộc. đã ở làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào cam tâm làm điều nhục nhã ấy!… ”.Làm sao họ có thể sa đọa, biến chất nhanh như thế được?! Ông kiểm điểm lại từng người trong óc. “Không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà.”.Nhưng rồi những chứng cứ môt lần nữa tái hiện lại khiến ông phải cay đắng chấp nhận sự thật nhục nhã này. Ông Hai không ngừng dày vò tâm trí: “ Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!”. Ông nghĩ tới sự xua đuổi, tẩy chay của tất cả mọi người, nghĩ đến tương lai chưa biết phải làm ăn, sinh sống như thế nào và phải đối diện ra sao trước miệng lưỡi cạnh khoé, nanh nọc của mụ chủ nhà. Tối đó, ông Hai “vẫn trằn trọc không sao ngủ được”, hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài ”,” chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được”. Ba bốn hôm sau đó, ông Hai “ không bước chân ra đến ngoài”, mà ‘‘chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng”, ‘‘một đám đông túm lại, ông cũng để ỷ,dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta để người ta bàn tán đến ‘‘cái chuyện ấy” rồi lủi ra một góc nhà, nín thít ”. Đó là cử chỉ của một người đang cam cố chịu đựng, trốn tránh như một tội phạm vì sợ người ta phát hiện mình là người làng Việt gian, sợ người ta xa lánh, xua đuổi, mắng nhiếc. Đến khi mụ chủ nhà nanh nọc, khó tính, có ý định đuổi cả nhà ông, tâm trạng ông Hai càng u ám, bế tắc. Những câu hỏi cứ hên tiếp cuộn trào trong tâm trí một ông già khốn khổ đáng thương: “Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ? ”. “Thật là tuyệt đường sinh sống! Trong giây phút tuyệt vọng ấy, ông đã chớm nở ý định quay về làng cũ: ‘‘Hay là quay về làng?… nhưng ý nghĩ ấy được gạt phăng ngay sau đọ: “ Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. “Về là bỏ kháng bỏ Cụ Hồ về làng là chịu đầu hàng thằng Tây, là lại cam chịu kiếp sống nô lệ, tôi đòi,.’.. Về là chịu mất hết. Đến đây, tinh yêu làng, yêu nước, ủng hộ cách mạng đã thực sự hòa quyện trong lòng ông lão nông dân tản cư. Trong đau khổ, dằn vặt, ông Hai đã đưa ra quyết định dứt khoát: phải thù cái làng theo giặc ấy dù trước đây cả đời ông đã gắn bó máu thịt với nó, đã vô cùng thương yêu, tự hào về nó. Mâu thuẫn nội tâm đã được tháo gỡ nhưng lòng ông Hai đau đới biết bao. ông chỉ biết san sẻ phần nào nỗi đau ấy với thằng con út thơ ngây; Những giọt nước mắt của ông lại “ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nổi thủ thỉ: “ừ đủng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỏ”. Đoạn văn rất chân tình, cảm động bởi nó không chỉ diễn tả thể hiện tình cảm phụ tử của cha con ông Hai mà qua đó, bộc lộ tâm trạng buồn bã, đau khổ và lòng quyết tâm trung thành của người cha già với cách mạng, với Cụ Hồ. Lời tâm sự: “Anh em đồng chí biết bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bo con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đẩy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”là những suy nghĩ, lời lẽ chân thành rất mực, mộc mạc rất mực của người nông dân nghèo Bắc bộ. Ồng Hai một lòng trung thành với cách mạng; và với ông, điều này to lớn hơn tất cả. Dù yêu làng da diết nhưng ông không thể phản bội Tổ quốc. Đến khi ông chủ tịch dưới quê lên cải chính tin đồn, ông Hai như mở cờ trong bụng. Thì ra cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, đó chỉ là tin đồn nhảm do địch mượn gió bẻ măng tung ra để gây hoang mang dân chúng, còn sự .thật là làng ông đã chiến đấu rất anh dũng, ồng mua quà chia cho các con: “Chúng mày đâu rồi,ra thầy chia quà cho nào lật đật báo tin với mọi người, cải chính cho mọi người xung quanh. Sau cái ngày trọng địa ấy, ông thay đổi hoàn toàn: mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy ”.Ông hồ hởi khoe với bác Thứ cái tin làng Chợ Dầu theo giặc là “sai sự mục đích” cả và tỏ ra rất hào hứng, hạnh phúc khi nhà mình bị Tây đốt nhẵn. Và còn đi khoe với mọi người nữa: lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. Còn phải để cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi người. Đối với ông, cái tin ấy ấy chính là một chứng cớ hùng hồn như muốn nói với mọi người rằng làng xóm quê hương ông đã đũng cảm chiến đấu chống quân thù. Ông rất vui, rất tự hào khi nghe tin nhà mình bị giặc đốt: “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên chỉnh…cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng cổ gì sất! Toàn là sai sự mục đích cả! Một lần nữa tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được thể hiện một cách thành thực và cảm động. Khép lại tác phẩm, ông Hai trở lại là một ông già vui tính, yêu quê hương, yêu nước; hai tình cảm ấy giờ lại thống nhất trong ông. Ông Hai là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình dị nhưng giàu lòng yêu nước – một mẫu người rất đáng quí của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Kim Lân thật sự tài ba khi chỉ bằng vài tình tiết đơn giản đã giúp ta hiểu được thế nào là cuộc kháng chiến toàn dân. Tác giả cũng ngầm khẳng định: với những người nông dân hồn hậu, nhiệt tình, sôi nổi như ông Hai thì cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là điều tất yếu. Niềm vui hoàn toàn trở lại trong tâm hồn người nông dân già tản cư. Và ông lại tiếp tục hãnh diện khoe làng mình là ngôi làng kháng chiến. Sau đó, cứ mỗi tối, ông Hai lại khoe về làng. Ông kể hôm thằng Tây khủng bố làng ông, chúng nó có bao nhiêu thằng, đi những lối nào, dân quân tự vệ làng ông chiến đấu ra sao… Kết bài: Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, gay cấn, miêu tả tâm lí nhân vật ông Hai rất sinh động và chân thực qua suy nghĩ, hành động, lời nói (đối thoại và độc thoại), ngôn ngữ trần thuật giản dị, gần gũi; nhà văn đã ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân thời ki kháng chiến chống Pháp: chân thật, mộc mạc nhưng đầy nhiệt tình với kháng chiến, hăng hái với cách mạng; tình yêu làng quê tha thiết, tình yêu nước sâu sắc luôn hòa quyện, thống nhất cùng nhau và gắn với sứ mệnh giải phóng dân tộc. Những điều đó đã làm nhân vật ông Hai sống mãi trong lòng người đọc nhiều thế hệ.