Phân tích tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân Bài làm: Mở bài: Kim Lân là một trong nhưng nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt nam thế kỉ 20. Ông thành công khi chọn viết về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận, những vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc bộ. Ở đề tài này, tưởng chừng như các nhà văn lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao đã khai thác hết. Thế mà Kim Lâm vẫn tìm kiếm được một lối đi độc đáo và hấp dẫn vô cùng. Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân và là tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trước cách mạng. Thân bài: Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc được kim lân viết trước năm 1954 với tên là Xóm ngụ cư. Sau này, khi tuyển chọn vào in trong tập Con chó xấu xí (1962), Kim Lân đổi tên tác phẩm thành Vợ nhặt. Đặt tên tác phẩm Vợ nhặt là thành công đầu tiên của nhà văn: Đó là một sự thay đổi táo bạo và độc đáo của nhà văn Kim Lân. Nhan đề Vợ nhặt gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” vợ bao giờ. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa. Vợ nhặt là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa. Và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Xây dựng tình huống truyện độc đáo là thành công thứ hai của Kim Lân: Tình huống truyện diễn ra khá đơn giản nhưng lại hết sức bất ngờ. Anh Tràng là một người vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư. Cái số phận ấy gần như mặc định rằng anh không thể lấy được vợ. Thế mà anh lại lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát cùng cực. Ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh, đe dọa ghê gớm đến sự sống của con người.. Tình huống lạ và độc đáo. Anh Tràng lấy được vợ, thậm chí có vợ theo. Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ. Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư. Với bà cụ Tứ thì đây giống như một giấc mơ hay sự đùa giỡn của số phận hoặc ông trời muốn thử thách lòng bà cụ khốn khó ấy. Thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó. Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn, đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Đó là một tình huống độc đáo vừa kì quặc, vừa oái ăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm và tủi nhục của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Họ không thể sống một cuộc sống đàng hoàng trong cảnh đói khát nhưng ở họ, tình yêu thương, tấm lòng cảm thông, che chở, cưu mang còn lớn lắm. Hiện thực bi thảm của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám qua câu chuyện lấy vợ của Tràng: Câu chuyện mở ra bối cảnh xã hội làng quê Bắc bộ trước cách mạng. Đó là một bối cảnh thê lương đến đáng sợ. Cuộc sống con người chênh vênh như con diều nhỏ trước gió bão. Cái đói tràn vào xóm ngụ cư làm thay đổi cuộc sống bình lặng ở đây. Nó âm thầm đi vào từng căn nhà, từng cuộc đời và gậm nhấm sự sống một cách khủng khiếp. Cái đói bao trùm lên xóm ngụ cư một không khí ảm đạm, chết chóc, tang ma với những hình ảnh rũ rượi, vật vờ, gục ngã. Cái đói hiện lên khuôn mặt từng người, từng gia đình, làng xóm. Tất cả trầm lặng trong một nỗi buồn khó chia sẻ được. Chiều chiều, khói đóng rấm nahf có người chết phủ lên một bóng mờ hư ảo như chốn địa ngục. Tiếng khóc thút thít, tỉ tê, ho hắt làm nát cả lòng người. Cái đói tàn phá cả sức trẻ và nhan sắc của cô gái. Sau hai lần gặp lại mà trong thị “rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sộp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Điều đó không khỏi làm Tràng ngạc nhiên. Anh không ngờ, chỉ mấy ngày đói khát mà thị đã thành ra thế ấy. Từ sự ngạc nhiên đi đến lòng cảm thương. Thế nên, hắn mới cởi mở mời thị ăn cái gì đó. Hành động vô tư nhưng nói lên tình yêu thương con người trong nghịch cảnh của nhân vật này. Rồi cái đói hiện lên rõ ràng và chân thực hơn khi nhà văn miêu tả cảnh nhà trang. Nhà anh nghèo, cũng chăng có gì. Ngoài kia đói, trong này cũng đói chẳng kém. Bữa ăn được cho là thịnh soạn nhất dùng để đón con dâu mới về lại là bữa cháo cám. Ai cũng ngậm ngùi, thấy “miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ họng”. Mở rộng hơn, hiện lên khung cảnh tàn tạ của xóm làng. Không khí tối tăm, ảm đạm thê lương trùm lên làng xóm. Từng hình ảnh được nhà văn dựng lại hết sức chân thực và xúc động. Đáng thương nhất là bọn trẻ con. Chúng “ngồi ủ rũ dưới những xó đường, không buồn nhúc nhích”, khác hẳn tính cách hồn nhiên thường ngày. Người sống “xanh xám như những bóng ma nằm ngổn ngang…”. “ Người chết như ngả rạ”. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Đó là hiện thực bi thảm và khủng khiếp mà nhân dân đã trải qua. Nó có sức mạnh lên án, tố cáo một cách gay gắt, mãnh liệt tội ác thực dân và phát xít đã đẩy nhân dân ta vào cảnh thảm sầu, bi đát. Hơn hai triệu người đã chết vì đói. Thé nhưng, trong hoàn cảnh đói khát cùng quẫn đó, con người vẫn thể hiện tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương, sự cảm thông và chia sẻ cho nhau Hình ảnh những con người giàu lòng nhân hậu: Nhân vật Tràng: Hình dáng: áo nâu tàn, đầu trọc nhẵn, lưng to bè như lưng gấu ngoại hình xấu, thô kệch mang dáng dấp của một người nông dân. Hoàn cảnh : quá nghèo, lại là dân ngụ cư. Tình huống Tràng nhặt vợ (lấy vợ) đã khiến cho người dân xóm ngụ cư phải ngạc nhiên, bà cụ Tứ – mẹ Tràng cũng ngạc nhiên và ngay chính bản thân Tràng cũng ngạc nhiên Tình huống truyện độc đáo, vừa lạ, vừa éo le và cũng là đầu mối cho sự phát triển của truyện tác động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật và làm nổi bật chủ đề của tác phẩm Tâm trạng của Tràng Lúc đầu: “Mới đầu anh chàng cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Trong lòng anh có chút phân vân, do dự, chưa biết tính thế nào. Sau đó: anh tặc lưỡi : “Chậc, kệ”. Anh quyết định đưa người đàn bà xa lạ ấy về nhà bất chấp hiểm họa đang rình rập. Hnahf động ấy thể hiện phẩm chất nhân hậu của Tràng. Sự quyết định và hành động của Tràng cho thấy niềm khao khát hạnh phúc gia đình người nông dân nghèo khổ này. Cái “chặc lưỡi” liều lĩnh của Tràng không phải là sự liều lĩnh bột phát mà lxuất phát từ một tấm lòng nhân hậu không thể chối từ. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đừng nhiều tình thương trong cảnh khốn cùng Trên đường dẫn vợ về Tràng như thành một con người khác: “Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” . Trước con mắt tò mò của dân xóm ngụ cư, người đàn bà càng thêm “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia” thì Tràng lại “thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh lên tự đắc”. Có lúc lúng ta lúng túng, tay nọ xoa vào vai kia khi đi bên người đàn bà Về đến nhà: “chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ”. Đó chính là sự căng thẳng của Tràng. Trong cùng một lúc anh phải đối diện với rất nhiều sự kiện, rất nhiều cảm xúc. Thế nên, biểu hienj cảm xúc trong nhân vật liên tục thay đổi. Chính Tràng cũng không hieur điều gì đang thay đổi trong hắn nữa. Nhà văn đã diễn tả vừa sinh động, vừa cụ thể, vừa tinh tế vừa sâu sắc niềm khao khát hạnh phúc, tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ dã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và cái chết Buổi sáng đầu tiên khi có vợ: Tràng cảm thấy: “trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Rồi hắn chợt nhận ra: “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với cái nhà hắn lạ lùng. Hắn thấy “một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Trong giờ phút có tính chất bước ngoặt ấy, Tràng cảm thấy mình trưởng thành hơn. Niềm vui sướng hạnh phúc của Tràng đã gắn liền với ý thức và bổn phận và trách nhiệm Chính hạnh phúc gia đình đã khiến cho Tràng suy nghĩ nhiều hơn, xa hơn. Hắn nghĩ đến tương lai. Trong óc anh hai lần hiện ra hình ảnh là cờ đỏ của Việt Minh. Hắn hướng tới cách mạng, sức mạnh có thể giúp hắn đổi đời và gìn giữ hạnh phúc đột ngột và lớn lao ấy. Tràng là con người có chất tốt đẹp và sức sống kì diệu. Ngay trên bờ vực của cái chết, Tràng vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Đó chính là tiếng nói nhân đạo của nhà văn đã cẩn thận gói ghém trong tác phẩm này. Tất cả những điều trên đã cụ thể hoá ý đồ nghệ thuật của nhà văn Kim Lân khi viết Vợ nhặt: “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng vào tương lai”. Từ đây đã làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng. Nhân vật bà cụ Tứ – người mẹ nghèo: Từ xa: bà đi vừa lẩm bẩm, dáng lọng khọng, ho húng hắng – Tâm trạng: Thấy Tràng reo lên, vồn vã, tâm trạng bà trở nên “phấp phỏng”. Có cái gì đó bất thường đang chờ đợi bà. Đến giữa sân: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?Sao lại chào mình bằng u?. Bà không ngừng ngạc nhiên trước những gì đang diễn ra trước mắt mình. Khi Tràng phân trần, cắt nghĩa: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”, bà mới hiểu. Hiểu rồi bà lập tức “cúi đầu nín lặng”. Bà còn “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Thế rồi, người mẹ đáng thương ấy cố “nén một tiếng thở dài”ngao ngán và lo lắng. Một sự nín lặng chất chứa biết bao suy nghĩ. Nhưng trước cuộc đời của con trai, bà đâu thể chỉ biết buồn tủi hay ai oán. Bà khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót người. Bà thấu hiểu ngay cái cảnh ngộ của người phụ nữ xa lạ bỗng trở thành con dâu của mình. Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Rồi bà tự dăn lòng mình: “thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”. Tiếp đó lại cầu ước: “may ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?” Trong cái xót xa là niềm vui tột cùng của người mẹ. Bà nhận rõ cái hoàn cảnh éo le của mình. Bà cũng nhận rõ cái hoàn cảnh bi thảm của người đàn bà kia. Bà chưa biết thật giả thế nào nhưng miễn con trai bà lấy dduwwocj vợ là cái phúc của nhà bà rồi. Chúng nó rồi đây sẽ sinh con đẻ cái, bà sẽ có người nối dõi. Là dân ngụ cư, tiếng đời đã cơ nhục. Lỡ mà không có người nối dõi thì càng thêm nhục nhã. Nhà văn lại một lần nữa đã vận dụng lối ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật để diễn tả chân thật và cảm động về những suy nghĩ của người mẹ. Bà “nhẹ nhàng”: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên kiép với nhau, u cũng mừng lòng”. Nghĩa là bà mở rộng lòng thương yêu đùm bọc, cưu mang con dâu mới. Rồi bà nhẹ nhàng dặn dò: “nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Lúc này, tâm trạng bà bắt đầu vui mừng khác thường nhưng không khỏi không lo lắng. Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Bà vui mừng vì có dâu mới, niềm vui mới, tương lai mới. Ba buồn vì cảm cảnh cơ hàn, nghĩ về người chồng đã quá cố không sống đén giwof để chứng kiến con trai nên bề gia thất. Rồi bà nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Bữa cơm đầu tiên đón nàg dâu mới chỉ có rau chuối, cháo cám”. Một bữa “cơm cưới” thật thảm hại nhưng đầm ấm và hoà hợp. Niền tin tưởng về tuowng lai được nhomsl ên từ trái tim héo hát của người mẹ: “tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho mà xem”. Dù chưa hẳn đã tin vào một ngày mai khá hơn nhưng bà vẫn mạnh mẽ nhen nhóm cho các con niềm hi vọng tươi sáng trong tương lai Với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, nghệ thuật miêu tả tâm lí rất tinh tế và sâu sắc, tác giả làm nổi bật hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ nghèo nhưng giàu lòng nhân hậu, vị tha, vun vén hạnh phúc cho con trong cảnh nghèo.Qua đó tác giả khẳng định: ngay trên bờ vực thẳm của cái chết những người nghèo khổ họ vẫn thương yêu và đùm bọc lẫn nhau, họ vẫn có niềm tin bất diệt vào cuộc sống vào tương lai. Hình ảnh người vợ nhặt, hiện thân của cái đói đến cùng cực: Thị không có tên Nhà văn đã không cho thị một cái tên. Thị vô danh hay thị chính là cuộc đời vô danh. Cuộc đời thị hay cũng chính là cuộc đời mà cả dân tộc ta đang trải qua lúc bấy giờ. Cái đói đã đẩy người dân lao động bình thường cực chẳng đã, phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự vốn có của mình. Người đàn bà – vợ Tràng hiện lên như một con ma đói: “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chua xót hơn nữa, chuyện tỏ tình giờ đây chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện sà vào miếng ăn. Thị theo Tràng trước hết vì miếng ăn. Thị muốn tiếp tục sống. Bản năng sống đang hoàn toàn chiếm lĩnh trong người đàn bà khốn khổ ấy. Thị về làm vợ Tràng trong tình cảnh đáng thương không phải bằng hình thức cưới mà là “nhặt chị” và đánh đổi chỉ bằng mấy câu đùa và mấy bát bánh đúc. Người đọc cũng bâng khuân tự hỏi thị muons làm vợ Tràng thật, thị cũng tìm kiế hạnh phúc hay chỉ vì muốn có chỗ nương tựa, thị muốn chạy trốn cái đói. Khi cùng Tràng về nhà, chị có vẻ ngượng nghịu, xấu hổ: “đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách tàng che nghiêng”, “ngồi mớm ở mép giường”. Lúc này, thị không còn cái vẻ chao chát, chỏng lỏn như ở chợ nữa rồi. Thị ý thức được thân phận và bổn phận của mình sắp tới. Nhìn thấy ngôi nhà đổ nát của Tràng “nén tiếng thở dài”. Có lẽ thị thất vọng. Cũng có thể thị hi vọng. Thị thấy gia cảnh của tràng không khác gì mình. Nghĩa là có thể hòa hợp được. nghĩa là không quá chênh lệch để phải chuốc lấy nhục nhã. Thị chấp nhận bước vào cuộc đời Tràng, chấp nhận cảnh sống nghèo khó ấy. Chỉ sau một đêm. người đàn bà ấy đã hoàn toàn thay đổi. Buổi sớm mai dậy sớm thị quét dọn, và quần áo, xách nước…. Giờ đây, thị là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Đó là hình ảnh người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình, đem lại sinh khí cho căn nhà tăm tối của Tràng, đem lại niềm vui sự đổi thay cho Tràng và mẹ Tràng. Chính mái ấm gia đình và tình yêu thắp sáng cho chị niềm hạnh phúc, niềm tin yêu về cuộc sống. Ba số phận khốn khổ gặp tìm được niềm vui trong sự cưu mang giúp họ vượt qua cuộc sống hiện tại, truyện thể hiện tính nhân đạo độc đáo: trong đói khổ, cận kề cái chết con người vẫn thương yêu đùm bọc nhau, vẫn gầy dựng hạnh phúc . Giá trị hiện thực và nhân đạo: Giá trị hiện thực: Tố cáo tội ác thực dân phát xít qua bức tranh thảm cảnh chết đói Nhặt vợ là cái khốn cùng của cuộc sống. Cái đói quay quắt đã dồn đuổi đến mức người đàn bà chủ động gợi ý đòi ăn chỉ vì quá đói. Chỉ cần vài lời nửa đùa, nửa thật, chị đã chấp nhận theo không Tràng. Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường, đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh bất chấp cả e thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang, đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc: Trong hoàn cảnh đói khát nhưng con người vẫn thể hiện được tình người, lòng nhân ái, sự cưu mang, đùm bọc của những con người nghèo đói là sức mạnh để họ vượt lên cái chết. Họ đã biết hướng đến sự sống, họ luôn nói chuỵên tương lai, chuyện sung sướng về sau, đặc biệt là bà cụ Tứ – người mẹ nghèo luôn nhen lên niềm hi vọng cho con dâu. Đó chính là sức sống bất diệt của vợ nhặt Giá trị nghệ thuật: Tình huống truyện độc đáo, kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động, miêu tả tâm lí tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị→nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật, làm rõ tâm lí từng nhân vật. Kết bài: Nói về cái cảnh cơ cực, bần hàn nhưng trang văn của Kim Lân không u tối, bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa. Tình huống lạ và éo le mà Kim Lân sáng tạo đã giấu kín thái độ của người kệ chuyện. Nhưng đằng sau các câu chữ, vẫn ân chứa tấm lòng thương cảm sâu sắc của nhà văn với kiếp người đau khổ, bắng một cái nhìn xót xa, trìu mến, một tấm lòng đôn hậu, trắc ẩn. Giá trị hiện thực và nhân đạo được lồng trong một tình huống éo le nên càng có sức hấp dẫn người đọc.