Phân tích tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn trong truyện ngắn Vợ nhăt của Kim Lân Bài làm: Mở bài: Trên năm mươi năm lao động nghệ thuật của Kim Lân chỉ để lại hai tập truyện ngắn nhưng ông được đánh giá là một trong những cây bút tài năng với những áng văn đặc sắc cho nên văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông là những trang viết về phong tục và đời sống làng quê cũng như những người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ. Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của Kim Lân khi viết về đề tài đó. Vợ nhặt được hoàn thành khá lâu sau năm đói những cảm quan về cái đói, có thể nói, đã chấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật và thấm đẫm trong từng trang viết của Kim Lân. Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của Vợ nhặt chính là ở chỗ tác giả đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó là việc Tràng, nhân vật chính trong tác phẩm, nhặt được “vợ” giữa lúc nạn đói đang hoành hành dữ dội ở nước ta vào năm 1945. Thân bài: Ý nghĩa tiêu đề vợ nhặt: Ngay cái cách mà tác giả đặt tên cho thiên truyện nay là Vợ nhặt đã tạo cho người đọc nhiều bất ngờ và đây cũng là nhan đề độc đáo, hoàn toàn phù hợp với tình huống của truyện – tình huống “nhặt vợ”. Từ xưa đến nay việc dựng vợ gả chồng là việc hệ trọng của đời người, vậy mà trong tình huống này Tràng lại “nhặt” được vợ. “Nhặt” tức là tình cờ lượm được, bỗng nhiên ngoài mà đến ngoài ý muốn, thông thường ta dùng để chỉ việc nhặt được một vật gì đó, vậy mà ở đây lại “nhặt vợ”. Xây dựng tình huống truyện đọc đáo Thật xót xa đau đớn biết bao! Thân phận con người chẳng khác nào cái rơm, cái rác. Và cũng thật oái ăm khi Tràng lại “nhặt” được vợ vào đúng lúc mà nạn đói khủng khiếp đang cướp đi sinh mạng của biết bao người dân Việt Nam từ Quảng Trị đến Bắc Kì. Việc Tràng “nhặt” được vợ ấy đã gây sự ngạc nhiên cho cả cái xóm ngụ cư của Tràng, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân Tràng. Hình ảnh nhân vật Tràng – một anh chàng khờ khạo nhưng tốt bụng: Từ tình huống Tràng “nhặt” được vợ, tác giả dần đưa người đọc đến với gia cảnh và lai lịch của Tràng. Tràng vốn là con nhà nghèo, cả cái gia tài của mẹ con Tràng có lẽ chỉ là cái căn nhà “đứng rúm ro trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, không chỉ vậy Tràng lại là kẻ xấu trai, đã thế lại còn dở hơi “Hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung là cho cái bộ mặt của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Mặt khác, Tràng lại là dân ngụ cư thường bị người làng khinh rẻ, con gái không ai để ý đến “Trai làng ở góa còn đông; Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư”. Hơn thế, hoàn cảnh lúc này đang là lúc đói kém đến cái thân Tràng không biết có nuôi nổi hay không và mà Tràng còn đèo bòng. Chính vì lẽ đó khi Tràng dẫn theo về nhà một người đàn bà hoàn toàn xa lạ đã khiến cho cả cái xóm ngụ cư đều ngạc nhiên, ngơ ngác, không hiểu thế nào. Ban đầu là những đứa trẻ, từ khi cái đói tràn đến cái xóm ngụ cư này, vào mỗi buổi chiều bọn trẻ cũng chẳng buồn ra trêu đùa với Tràng nhưng hôm nay đi bên cạnh Tràng là một người đàn bà khiến cho bọn chúng phải “chạy ra xem” và trêu Tràng thì đúng là một điều lạ. Còn với những người dân xóm ngụ cư, họ không nghĩ đó là vợ anh ta và họ cũng không nghĩ rằng anh ta dám lấy vợ vào lúc này “Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán (…). Ai đấy nhĩ?… Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên? (…) Hay là vợ anh cu Tràng? Ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Nhưng khi họ hiểu được đôi phần thì dường như họ đã thay đổi “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc đời đót khát, tăm tối ấy của họ”. Việc Tràng đưa người “vợ nhặt” về không chỉ gây sự ngạc nhiên cho những người dân xóm ngụ cư mà còn khiến cho bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên hơn. Về đến nhà bà lão vô cùng bất ngờ khi thấy có người đàn bà ở trong nhà “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?” và bà lại càng ngạc nhiên khi người đàn bà ấy lại chào bà bằng u “Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhĩ? Ô hay, thế là thế nào nhĩ”. Bao nhiêu câu hỏi là bấy nhiêu điều ngạc nhiên đối với bà. Ngay cả khi Tràng nhắc bà “Kìa nhà tôi nó chào u” thì bà vẫn chưa hiểu bởi bà không ngờ rằng có người chấp nhận lấy con mình và cũng không ngờ rằng con bà lại dám lấy vợ vào lúc đói kém nhất này. Rồi đến ngay cả bản thân Tràng cũng vậy, người đàn ông dở hơi ấy cũng không ngờ rằng mình dám liều lĩnh lấy vợ vào lúc này “Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn có vợ rồi đấy”. Quả thực việc Tràng có vợ là điều ngoài sự tưởng tượng của hắn bởi ở hắn hội tụ yếu tố không thể lấy được vợ vậy mà thực tế hắn đã có vợ mà lại là vợ theo. Hắn và thị đến với nhau đâu có tìm hiểu hay mai mối gì, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào, đâu có hai bận mà thành vợ thành chồng. Trong một lần kéo xe lên tỉnh, Tràng chỉ hò một câu vu vơ cho đỡ mệt chứ cũng chẳng chủ ý trêu đùa với ai vậy mà thị lon ton chạy ra đẩy xe cho hắn, rồi lần thứ hai gặp lại thị bản thân hắn cũng không nhận ra vì “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gày xọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Hắn mời thị ăn bánh đúc “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc chẳng truyện trò gì” và hắn cũng chỉ buông ra một câu nói đùa “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng rồi cùng về”, ấy vậy mà thị theo về thật. Và thậm chí đến buổi sàng hôm sau ngày có vợ, Tràng vẫn chưa hết ngỡ ngàng “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Với Tràng đó là cảnh “vợ nhặt” còn với thị đó là vợ theo. Khi đặt nhân vật của mình vào tình huống như vậy, Kim Lân không phải muốn viêt nên một bản tố khổ nhưng nhà văn đã tố cáo một cách sâu sắc tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp cho nhân dân ta vào mùa xuân năm 1945, người sống thì dật dờ, xanh xám như những bóng ma, người chết thì như ngả rạ “Không buổi sáng nào, người đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường”. Dường như những người dân lao động khó có ai có thể thoát khỏi cái chết và giá trị con người lúc này cũng trở nên rẻ rúng vô cùng. Có ai ngờ được con người ta có thể có vợ chỉ bằng mấy bát bánh đúc bán ở chợ và cũng càng không thể ngờ rằng chỉ vì miếng ăn mà người ta có thể vứt bỏ cả nhân phẩm để đi theo một người hoàn toàn xa lạ về làm vợ. Tình huống truyện không chỉ dừng lại ở việc gây sự ngạc nhiên cho mọi người mà đây còn là một tình huống oái ăm, không biết nên vui hay nên buồn, nên mừng hay nên lo. Tất cả mọi người đều có chung tâm trạng ấy, từ những người dân trong xóm ngụ cư đến mẹ Tràng và ngay cả Tràng cũng vậy. Những người dân xóm ngụ cư ban đầu còn tập trung bàn tán đến khi hiểu đưược đôi phần thì những khuôn mặt hốc hác, u tối ấy có phần rạng rỡ hẳn lên nhưng rồi họ cũng nín lặng. Sự nín lặng ấy của họ là gì nếu không phải là sự lo lắng, họ cũng thừa hiểu rằng trong hoàn cảnh lúc này đến nuôi thân còn khó vậy mà Tràng còn “rước cái của nợ đời về” liệu rồi “có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không?”. Người dân xóm ngụ cư thì vậy, còn với Tràng thì sao, phải chăng hắn dở hơi nên không biết nghĩ hay là bởi vì hắn nghĩ có thể nuôi thị bằng cái nghề kéo xe thuê của hắn? Thật ra, ngay khi thị đi theo thì hắn đã lo lắng, hắn cũng cảm thấy chợn bởi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng rồi hắn vẫn chấp nhận bằng cái tặc lưỡi “chậc, kệ”. Suy nghĩ của hắn cũng thật đơn giản, mà đơn giản cũng phải bởi hắn và thị phải duyên phải kiếp với nhau biết đâu giời không bắt phải chết. Phải chăng đằng sau cái tặc lưỡi của người đàn ông dở hơi ấy là một sự đánh cuộc cùng cái đói? Đặt nhân vật của mình trong hoàn cảnh như vậy, nhà văn như muốn khẳng định một điều đó là người dân lao động dù ở trong hoàn cảnh có bi thảm đến đâu thậm chí có cận kề bên cái chết, họ vẫn khát khao hạnh phúc. Và như thế ta có thể hiểu, ở Tràng khát khao về hạnh phúc là có thật và Tràng cũng đã có những cảm giác về hạnh phúc “trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì đó mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”. Nhân vật bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo khó nhưng giàu tình yêu thương: Đáng chú ý nhất vẫn là tâm trạng đầy mâu thuẫn của bà cụ Tứ khi đón nhận người con dâu mới, bà vừa ngạc nhiên, vừa buồn vừa lo nhưng bà cũng cảm thấy vui. Ban đầu, bà vô cùng ngạc nhiên bởi bà không nghĩ con bà lại dám lấy vợ vào lúc này và không nghĩ rằng có người chịu lấy con mình. Khi hiểu ra cơ sự, trong lòng người mẹ nghèo ấy ngổn ngang biết bao nỗi niềm ai oán, xót xa “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Trong lòng bà lão trào dâng sự buồn tủi “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái sau này. Con mình thì… Trong kè mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” nhưng khi nhìn người đàn bà tiều tụy vì đó bà hiểu vì sao người ta chấp nhận theo không con mình. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà lão thực sự cảm thấy tủi hơn là buồn bởi bà là mẹ mà không lo nổi hạnh phúc cả đời cho con mình “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con”. Là một người mẹ từng trải nên bà cảm thấy lo cho hạnh phúc của con bởi chúng lấy nhau trong lúc đói kém này “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không (…). Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Quả thực, không ai có thể hiểu con, thương con và lo cho con như người mẹ thế nhưng bà cụ Tứ cũng chỉ có thể thương bằng cả tấm lòng của người mẹ thôi chứ cũng không thể giúp chúng bằng vật chất bởi bà cũng nghèo. Thế rồi tấm lòng nhân hậu của bà cũng rộng mở để đón nhận người con dâu không cưới hỏi ấy “ừ, thôi hai đứa phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Vâng, bà lão “mừng lòng” vì con mình có được vợ, khuông mặt bủng beo của bà rạng rỡ nhưng niềm vui ấy của bà đã bị những lo lắng ghì chặt xuống khiến bà “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Kết bài: Đọc đến đây có lẽ ít có thể ngờ rằng chính người mẹ già đã lọng khọng này lại là người thắp lên niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng. Bà lão tin vào tương lai bởi “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” và bà nói đến toàn chuyện vui, chuyện về tương lai từ chuyện nuôi gà đến chuyện tương lai sau này cho “con cái chúng mày về sau”. Dường như đối với bà lão lúc này việc chăm lo vun vén cho hạnh phúc của các con chính là niềm vui của bà, là động lực để bà có thể vượt qua những khó khăn của sự túng đói quay quắt.