Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là nhà văn trưởng thành từ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Minh Châu quê tỉnh Nghệ An, gia nhập quân đội năm 1950 (20 tuổi), 32 tuổi chuyển sang hoạt động văn nghệ từ đó chính thức trở thành nhà văn quân đội, nhà văn trưởng thành từ trong quân ngũ, từ khói lửa chiến tranh, những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Minh Châu cũng là những tác phẩm viết về chiến tranh. Viết về chiến tranh, hình tượng trung tâm là người lính trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tác phẩm tiêu biểu trước 1975 là truyện Mảnh trăng cuối rừng viết về câu chuyện tình yêu đẹp, lãng mạn giữa một cô thanh niên xung phong với một anh lính lái xe trên miền rừng núi phía tây Trường Sơn. Đầu những năm 1980, đổi mới trong quan niệm về cuộc đời, về con người, mà chúng ta hay nói bằng một cụm từ “cuộc đời thì đa sự, con người thì đa đoan”. Đổi mới trong cách nhìn nhận về con người, con người không phải là đơn giản như trong trang văn là có sự phức tạp mà nói như Nguyễn Tuân là có sự lẫn lộn giữa rồng phượng và rắn rết. Tác giả nhìn nhận và tái hiện con người như vậy. Con người có sự hòa trộn của những sự bề bộn. Thứ hai là cách nhìn nhận cuộc sống, cuộc sống đa chiều đầy những vết nham nhở, sần sùi. Cuộc sống đó có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, có cả những vật vã bức bối. Và trong cuộc sống ấy tác giả đã tìm thấy những mặt khuất lấp của chiến tranh, những phần sâu kín trong tâm hồn của con người ttrong cuộc sống đời thường sau chiến tranh. Làm rõ vai trò tiên phong trong văn học thời kì đổi mới qua các tác phẩm Bến quê, Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,… Trước 1975: đề tài chiến tranh với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Sau 1975: Chuyển sang những vấn đề triết lí nhân sinh với cảm hứng thế sự đời tư. Tác phẩm Nguyễn Minh Châu thể hiện cái nhìn đa diện về cuộc đời, con người. Nguyễn Minh Châu là một trong số những người mở đường tinh anh nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, thuộc giai đoạn sáng tác thứ 2 của Nguyễn Minh Châu. Ở giai đoạn này, Nguyễn Minh Châu cùng với Nguyễn Khải là hai nhà văn xông xáo và thành công nhất trong công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà. Đặc điểm xã hội và văn học giai đoạn bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới: Cuộc kháng chiến chống giặc đã kết thúc một cách huy hoàng, đã khép lại năm 1975 và dư âm của nó còn có thể kéo dài sau một vài năm nữa nhưng đến đầu những năm 1980 thì lúc này cuộc sống muôn mặt của đời thường sau chiến tranh đã trở lại. Và tác giả quay lại với những vấn đề của đời sống văn hóa, nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chúng ta tạm thời quên đi, chúng ta tạm thời không chú ý thì đến bây giờ nó quay lại vẹn nguyên và được con người quan tâm chú ý và nhà văn chính là người thư kí trung thành của thời đại cho nên đã phản ánh lại những vấn đề nhân sinh ấy trong tác phẩm của mình. “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng mang xu thế chung của nền văn học thời kì đổi mới :văn học hướng nội, là khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường; không phải là con người lí tưởng trong chiến tranh nữa, không phải là những người anh hùng nữa, không phải là những con người hoàn hảo nữa mà bây giờ là con người trong cuộc sống đời thường sau chiến tranh. Con người ấy phức tạp muôn mặt, có cả rồng phượng và rắn rết. từ đó tác giả đặt ra những triết lí, vấn đề đạo đức rất sâu sắc, rất có ý nghĩa. Câu chuyện kể về những điều được chứng kiến và chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong một chuyến đi thực tế. Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, theo lời đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mỹ. Sau mấy buổi sáng “phục kích”, anh đã “chộp” được một cảnh “đắt” trời cho: cảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực tàu. Thế nhưng ngay sau đó, Phùng lại chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình. Những ngày sau, cảnh bạo lực đó lại tiếp diễn. Không thể nén chịu được, Phùng đã xông ra ngăn cản người đàn ông, bị lão đánh trả nên anh bị thương. Ở tòa án huyện, người đàn bà hàng chài được Đẩu, chánh án huyện, mời đến, anh khuyên người đàn bà bỏ chồng để khỏi bị hành hạ. Nhưng khi nghe câu chuyện và những lý lẽ của người đàn bà hàng chài thì Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều. Những tấm ảnh Phùng chụp đã được chọn cho bộ lịch nghệ thuật. Mỗi lần ngắm bức ảnh ấy, Phùng lại thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai và người đàn bà hàng chài thô kệch. Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng: * Phát hiện thứ nhất: Bức tranh thiên nhiên Ngoại cảnh: + Một chiếc thuyền lưới vó…chèo thẳng vào + Mũi thuyền…bầu sương mù trắng như sữa…hồng hồng…chiếu vào + Vài bóng người…ngồi im phăng phắc → Cảnh chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương Cảm nhận của Phùng về cảnh: + Cảnh “đắt” trời cho + Bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ + Vẻ đẹp hài hòa, đơn giản và toàn bích → Bức họa diệu kì, tuyệt đẹp, sản phẩm quý hiếm của tạo hóa. Cảm xúc của Phùng: + Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào: rung động trước cái đẹp + Bối rối, tưởng chính mình…tâm hồn: tâm hồn được thanh lọc + Khoảnh khắc hạnh phúc…mang lại: hạnh phúc → Phùng là một người nghệ sĩ chân chính. Bức tranh chiếc thuyền ngoài xa, giữa một không gian biển trời mờ sương; hài hòa giữa thuyền, biển, đường nét, ánh sáng. Trong đời người nghệ sĩ nào cũng khao khát bắt gặp và khi bắt gặp thì được xem đó là 1 diễm phúc. Đây không chỉ là kết quả của 1 tuần lễ phục kích mà đây là kết quả của cả 1 cuộc đời cầm máy và khao khát. Phùng đã nhìn thấy cảnh tượng mà bất kì người nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng khát khao được 1 lần. có thể nói Phùng đã đạt đến điều lí tưởng trong đời nghệ sĩ nhiếp ảnh của mình. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Với tác dụng ấy, cái đẹp chẳng phải là đạo đức sao? Lúc ấy Phùng thấm thía câu nói của một người nào đó: bản thân cái đẹp là đạo đức, nó có tác dụng khiến con người trở nên tốt đẹp hơn; liên hệ với ý kiến của Thạch Lam “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn. Tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân: trước cái đẹp của khí phách, tài hoa, những nét chữ hiện lên trên tấm lụa, lời khuyên chân tình thì quản ngục nói một câu trong niềm xúc động. Quản ngục sẵn sàng từ bỏ nghề mưu sinh, nghề gắn bó cả đời với mình để giữ thiên lương vì sự cảm hóa của Huấn Cao- cái đẹp, thiện. Niềm hạnh phúc của một nghệ sĩ khi chiêm ngưỡng cái đẹp. Nhưng để có được điều đó phải kiên trì, vượt khó, đam mê hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp diệu kì có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hòa hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người, đơn giản và hoàn mĩ. * Phát hiện thứ hai – Bức tranh hiện thực cuộc sống: Đó là vẻ đẹp bên ngoài của Chiếc thuyền ngoài xa. Nhưng ngay khi đang bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảng khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh lại phát hiện ra điều gì tiếp ngay sau bức tranh? Khi chiếc thuyền tiến vào bờ, hiện ra cảnh: người đàn ông đánh vợ Bất công, ngang trái; người vợ cam chịu bi kịch của gia đình; đứa con đánh lại cha hàng chài Thái độ của Phùng: + Kinh ngạc…há hốc…nhìn Không thể hiểu được + Câu chuyện cổ đầy quái đản →việc vô lí, phi lí => Cuộc đời chứa đựng nhiều mâu thuẫn, nghịch lí. Đó là mặt trái của bức tranh…mà Phùng vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Giả sử ai đó muốn can thiệp vào tác phẩm bằng cách đảo vị trí hai phát hiện này để đưa kết cục về một hướng khác liệu có được không. Điều đó thực sự là không thể vì nhà văn đã có dụng ý khi để cảnh tượng trời cho hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che giấu bản chất thực bên trong -> đặc sắc của tình huống truyện: mang tính khám phá, phát hiện. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện: – Người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng bà vẫn không từ bỏ, vì: + Nỗi vất vả…không có đàn ông: đặc trưng sinh tồn, mưu sinh của người dân vùng biển. Đám đàn bà…phải có người đàn ông…cùng làm ăn nuôi con. + Đám đàn bà ở thuyền…sống cho con…: sống vì con. + Phải chăng chị ta là một người u mê tăm tối không có ý thức về sự sống của mình? Hay là những trận đòn roi khiến chị chai lì, vô cảm hay chính những đói nghèo, bạo hành gia đình khiến chị tê liệt ý thức tinh thần, không còn có suy nghĩ phản kháng nữa. + Phải chăng số phận nhân vật bị đẩy đến cùng cực như vậy: – Đầu Phùng “vỡ ra” nhiều điều: + nhọc nhằn của ngư dân + ảo tưởng thay đổi cuộc sống người dân + tình mẫu tử → Không dễ dàng trong việc đánh giá hiện tượng đời sống, con người qua vẻ ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, có cái nhìn đa diện, nhiều chiều =>Tình huống nhận thức – Trước khi nghe câu chuyện, thái độ của chánh án Đẩu là rất cương quyết. Nhưng sau khi nghe những gì mà người đàn bà vùng biển giải bày. Một sự cam chịu nhẫn nhục đáng cảm thông. – Cuộc đời người đàn bà không hề đơn giản. Trong hoàn cảnh này, cách hành xử của chị ta dường như là không thể khác. Có lẽ giải pháp bỏ chồng mà Đẩu áp dụng trong trường hợp này là không ổn. – Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng phải đi vào cuộc sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng ào ào cho mọi đối tượng. – Người đàn bà xin chồng không đánh trên thuyền trước mặt con mà đưa mình lên bờ đánh vì vậy chồng thường đưa người đàn bà lên bãi xe tăng hỏng đánh. Người mẹ ấy tuy ít học nhưng ẩn tàng là tình mẫu tử. + Bà không muốn hình ảnh một người bố vũ phu đi vào tâm thức các con. + Bà không muốn con phải chứng kiến cảnh đau lòng ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng bố dùng dây thắt lưng quật vào mẹ những trận đòn nảy lửa. + Bà không muốn tâm hồn các con bị tổn thương. Nhưng rồi các con cũng chứng kiến cảnh ấy. Và phản ứng của những đứa con có lẽ khiến người đàn bà đau đớn hơn là những trận đòn roi của người chồng. Vì khi chứng kiến cảnh người mẹ của mình bị tra tấn dã man thì những đứa con đã rơi vào trạng thái căm phẫn, căm hận đối với người cha của mình. Lòng căm hận ấy không chỉ làm tổn thương, thui chột tâm hồn, làm méo mó những suy nghĩ về cuộc sống, về hình tượng người cha mà nó còn dẫn đến những hành động mù quáng. Người mẹ hiểu điểu này nên gửi nó lên bờ với ông ngoại để tránh khiến sau này nó như cha, tránh sự tổn thương tâm hồn đứa con. Khi chị chứng kiến cảnh nó đánh lại cha người mẹ vô cùng đau đớn vì chị hiểu chị cố gắng che chở bây giờ đã bị tổn thương. Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài: Tên: người đàn bà → vô danh, gợi ra biết bao người phụ nữ vùng biển khác Ngoại hình: + rỗ mặt, cao lớn: xấu xí, thô kệch + vẻ mệt mỏi: lam lũ Số phận: có mang với anh con trai hàng chài, đẻ nhiều, bị chồng hành hạ: bất hạnh Tính cách: + Khi bị chồng đánh: không kêu, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn: cam chịu đầy nhẫn nhục + Khi được khuyên bỏ chồng: kiên quyết không bỏ + Lí do không bỏ chồng: “lúc nào thấy khổ quá là xách tôi ra đánh…”: Thông cảm cho chồng, thấu hiểu lẽ đời. Cuộc sống của người dân vùng biển, vì các con: hi sinh vì con + Đối với con cái: Xin chồng đưa mình lên bờ đánh: tránh làm tổn thương tâm hồn các con. Khi thằng Phác đánh lại cha, Khóc, vái lấy vái để…: Đau đớn vô cùng khi tâm hồn các con bị tổn thương. Niềm vui lớn nhất là nhìn đàn con ăn no =>Thân phận lam lũ, nạn nhân của sự bạo hành nhưng thấu hiểu lẽ đời, hết lòng thương con và kết tinh tình mẫu tử lấp lánh. Nhân vật người đàn ông: – Xuất thân: con nhà hàng chài, hiền lành – Ngoại hình: tấm lưng rộng và cong…; mái tóc tổ quạ; chân đi chữ bát; mắt đầy vẻ độc dữ: chắc khỏe, lao động nặng nhọc, cục tính. – Hành động, cử chỉ: + Hùng hổ, mặt đỏ gay, rút thắt Hành hạ vợ lưng quật tới tấp vào lưng vợ để giải tỏa bực dọc. + Vừa quất vừa nguyền rủa “Mày chết đi…” – Thái độ của mọi người: + Phùng, Đẩu: lên án sự vũ phu + Người đàn bà: “lỗi chính…đẻ nhiều quá…”; “lúc nào thấy khổ…đánh”: nhận thấy chồng là nạn nhân của hoàn cảnh: cảm thông → Cần có cái nhìn toàn diện. Trong câu chuyện ở tòa án, người đàn bà kể về người chồng vũ phu của mình với thái độ cảm thông và bao dung, không thù hận cũng không buông bỏ. Điều đó cho thấy, người đàn bà đã nhìn chồng với một thái độ thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ. Trong khi đó Đẩu, Phùng và thằng Phác chỉ mới nhìn thấy một khía cạnh ở người đàn ông đó với thái độ căm giận. Cái nhìn của người đàn bà toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Chị đau đớn nhưng không oán hận vì thấu hiểu nguyên nhân sâu xa của những hành động vũ phu ấy. So sánh: Từ sự tha hóa của người đàn ông hàng chài qua điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới không kém phần khó khăn, gian khổ so với 2 cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã qua, cuộc chiến bảo vệ nhân tính, thiên lương và vẻ đẹp tâm hồn con người. Ở phương diện này, tác giả kế thừa xuất sắc tư tưởng nhân văn, nhân đạo sâu sắc của nhà hiện thực Nam Cao. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy: Bức ảnh đen trắng nhưng thấy: – Màu hồng hồng của ánh sương mai: biểu tượng của nghệ thuật. – Hình ảnh người đàn bà: Sự thật cuộc đời. → Nghệ thuật gắn với cuộc đời “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời; người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện sâu sắc. Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật. Nghệ thuật kể chuyện (ngôi kể thích hợp → câu chuyện chân thực). Ngôn ngữ giản dị mà sâu sắc IV. Luyện tập: Cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình; từ đó thấu hiểu mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ không hề đơn giản, sơ lược khi nhìn cuộc sống, con người. Hiểu được những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm: tình huống truyện độc đáo, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống; điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đa chiều; lời văn giản dị mà sâu sắc, dư ba.
Bài tham khảo: Phân tích tình huống truyện của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu là cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam. Trước 1975, ngòi bút Nguyễn Minh Châu hướng về cảm hứng lãng mạn với những hình tượng đẹp tráng lệ, tuyệt mỹ. Sau 1975, ngòi bút ấy hòa cùng dòng chảy của cuộc sống, tìm về với cảm hứng thế sự, phát hiện, tìm tòi bản chất tốt đẹp của con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong quá trình hoàn thiện bản thân và tìm kiếm hạnh phúc. “Chiếc thuyền ngoài xa” là kết tinh của tâm huyết và tấm lòng của nhà văn, là thành quả của một bầu máu nóng luôn hết lòng vì cuộc đời, với những nỗi đau đời đau người tha thiết. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”, tình huống truyện là một điểm sáng, làm nên sức hấp dẫn và lay động hàng triệu trái tim bạn đọc của tác phẩm. Tình huống truyện là gì? Như Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tình huống là một khúc cưa của đời sống mà qua đó ta thấy được trăm năm đời thảo mộc”. Tình huống truyện là cái hoàn cảnh được tạo thành bởi các sự kiện đặc biệt mà tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc và tư tưởng, tình cảm của nhà văn thể hiện đậm nét. Tình huống truyện của “Chiếc thuyền ngoài xa” có thể tóm gọn như sau: Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh được giao nhiệm vụ chụp bức ảnh về biển ở vùng biển miền Trung để cho tờ lịch sắp xuất bản. Sau bao công sức tìm kiếm, cuối cùng anh cũng chụp được bức ảnh tuyệt tác, “giản dị mà toàn bích”. Thế nhưng, ngay sau đó anh chứng kiến cảnh bạo hành tàn nhẫn, độc ác của một gia đình hàng chài, và sự việc vẫn tiếp diễn như thế. Mọi việc càng trở nên khó hiểu khi ở tòa án, người đàn bà hàng chài nhất định không chịu bỏ người chồng đã đánh đập chị tàn nhẫn. Đến khi người đàn bà đưa ra những lí lẽ giải thích, thì dường như cả Phùng và Đẩu đều rút ra được cho mình những bài học về nghệ thuật và cuộc sống. Như vậy, tình huống ở đây là tình huống nghịch lý và tình huống nhận thức. Tình huống nghịch lý là tình huống bao hàm những sự kiện đối lập, thậm chí trái ngược, phi logic mà từ đó tác giả lôi kéo người đọc vào những câu hỏi, thu hút họ giải đáp những câu hỏi đó để chạm vào chiều sâu chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Tình huống nghịch lý ở đây là sự đối lập giữa bức tranh thiên nhiên diễm lệ, toàn bích và cảnh hiện thực cuộc sống thô nhám, xù xì, tàn nhẫn, mà trong cảnh hiện thực ấy, mỗi số phận, mỗi tính cách nhân vật cũng đầy những mâu thuẫn, những nghịch lý, những uẩn khúc tưởng như kìm nén những cơn sóng lòng trong sự im lặng, để rồi những điều không nói ấy ám ảnh người đọc, thu hút người đọc đi đến tận cùng câu chuyện. Bức tranh thiên nhiên là bình diện thứ nhất của tình huống nghịch lý. Đó là một “cảnh đắt trời cho”, là một vẻ đẹp toàn bích: “Trước mắt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe lên bầu sương mờ trắng như sữa và có pha chút ánh hồng do mặt trời chiếu vào. Một vài bóng người lớn trẻ em ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui lum khum”. Đó là một cảnh tuyệt mỹ, vừa tĩnh, vừa động, có sự phối màu độc đáo của hộ họa và có sự phối cảnh xa gần cùng những góc ảnh đặc sắc của nhiếp ảnh. Chính vì thế nó mang vẻ đẹp “tuyệt đỉnh”, vẻ đẹp “giản dị mà toàn bích”. Bức tranh thiên nhiên càng đẹp bao nhiêu, càng lộng lẫy bao nhiêu, thì khi nó đối nghịch với hiện thực cuộc sống, người nghệ sĩ càng bàng hoàng, choáng váng bấy nhiêu. Và quả thật, nghệ sĩ Phùng chỉ biết “há mồm ra mà nhìn” khi chứng kiến cảnh bạo hành, một cảnh tượng cũng đầy nghịch lý. Đầu tiên là người đàn ông, hắn đánh vợ một cách thô bạo, “vung chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, vừa đánh, “răn nghiến ken két”, “nguyền rủa bằng giọng rên rỉ đau đớn: “Chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Đánh vợ! Đánh một người cùng lão đồng cam cộng khổ, cùng chịu đựng biết bao sóng gió, lại có với nhau trên dưới chục con, tình cảm sâu đậm, gắn bó vậy mà hắn có thể tàn nhẫn đánh vợ! Đó là một nghịch lý. Nhưng cái thái độ của người đàn ông lại là một nghịch lý khác. Khi đánh ai đó để hả giận, ta ắt hẳn phải thấy sung sướng. Hoặc nếu cái ác thấm vào bản chất, thì việc hành hạ ấy càng hiển nhiên, như không có gì. Trong “Vợ chồng A Phủ”, A Sử trói Mị và hành hạ Mị mà nó còn thể thể chỉnh lại dây lưng, đi ra ngoài, tắt đèn, khép cửa, nó coi mọi việc như hiển nhiên phải thế, đó là bởi vì cái xấu xa, tàn nhẫn đã thành bản chất của nó. So sánh với A Sử, ta càng thấy người đàn ông này có nhiều điểm khó hiểu. Đánh người khác, nhưng bản thân mình cũng đau đớn, cực nhọc như chính mình bị đánh. Cái tiếng nguyền rủa, “mày chết đi” thì là nguyền rủa, nhưng “cho ông nhờ” lại là van xin. Một cảnh tượng không dễ lí giải. Tại sao như vậy? Phải chăng đó là sự tàn nhẫn hay còn uẩn khúc nào khác? Phải chăng cái ác đã là bản chất của người đàn ông này, hay còn điều gì giấu kín bên trong? Người đàn bà cũng vậy, nhân vật người đàn bà bị đánh tàn nhẫn, “ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng”, nhưng vẫn “cam chịu đầy vẻ nhẫn nhục, không kêu lên một tiếng, không phản kháng cũng không tìm cách chạy trồn”. Bị hành hạ, mà ngay cả phản ứng bản năng nhất là lên tiếng, cũng không có. Điều cũng thật khó hiểu. Phải chăng bà ta vô học nên không hiểu quyền của mình? Phải chăng bà ta vô cảm đến tê dại nên không có một chút phản kháng? Hay, phải chăng, còn một uẩn khúc gì đó? Người con trai, Phác, cũng đầy mâu thuẫn và nghịch lý. Trước ông bố, nó như “một viên đạn đang lao vào đích ngắm”, giật chiếc thắt lưng , “dướn mình quật thẳng chiếc móc sắt vào khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Đó là hành vi có tính chất côn đồ, chứa đầy căm thú. Nhưng với mẹ nó thì lại “đưa bàn tay lên mặt mẹ nó như muốn lau đi dòng nước mắt còn đọng lại những vệt rỗ chằng chịt”. Một cái gì đó yêu thương vô hạn và xót thương vô hạn, của một trái tim nhân hậu. Vậy Phác là ai? Một “viên đạn lao tới người đàn ông và xuyên thủng tâm hồn người đàn bà”, như Nguyễn Minh Châu nhận xét? Phác là một kẻ côn đồ hay người con có hiếu? Hay Phác, thật ra, là một đứa trẻ tội nghiệp, yêu thương nhưng bất lực? Vẫn là những uẩn khúc không dễ gì giải đáp. Uẩn khúc và uẩn khúc, câu hỏi này xoáy vào câu hỏi kia thành những băn khoăn, bất tận, ám ảnh, day dứt, đó là tác động tâm lý của tình huống nghịch lý lên bạn đọc, và lên cả nhân vật tư tưởng, nghệ sĩ Phùng. Tình huống kéo người đọc vào trăn trở cùng cuộc sống với những bi kịch tưởng như nhỏ nhặt mà thật ra đầy rẫy đau đớn, với những tâm trạng phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người. Đó chính là bước thu hút đầy nghệ thuật để hướng mọi sự tập trung của người đọc vào cốt lõi của vấn đề: Nhận thức được tư tưởng mà nhà văn gửi gắm, xây dựng, trong tình huống nhận thức. Tình huống nhận thức là một trong ba loại chính của tình huống truyện (cùng với tình huống hành động, tình huống tâm trạng), nó cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật. Nhân vật của nó, thường là nhân vật tư tưởng, mà ở đây, là Phùng và Đẩu. Qua Phùng, nhà văn gửi gắm thông điệp về nghệ thuật, và trong suốt câu chuyện, đó cũng chính là những gì mà người nghệ sĩ này nhận thức được. Thứ nhất, nghệ thuật cần tâm huyết, cần sự kiên trì, miệt mài sáng tạo, Phùng nhận ra điều này khi phải chụp đi chụp lại mới được một tấm hình đắt giá. Để được tập ảnh có hồn, đó là cả một quá trình miệt mài lao động! Thứ hai, người làm nghệ thuật cần tỉnh táo trước cái đẹp: Cái đẹp có hoàn mỹ cách mấy, nhưng bên trong nó chưa chắc đã là cái toàn bích, mà còn có thể là cái vô luận và tàn nhẫn, là bạo lực, là đau thương, là bất hạnh…, người nghệ sĩ không chỉ dừng lại ở cái đẹp, mà còn phải đi sâu vào bên trong nó, vượt qua cái thỏa mãn ban đầu để nhìn sâu vào hiện thực, khám phá nỗi đau con người. Đó là điều Phùng nhận ra giữa hai bức tranh chiếc thuyền ngoài xa, và chiếc thuyền ở gần – một thứ “nước rửa ảnh quái đản” làm đảo lộn những gì anh ghi được trên phim. Và bức tranh ấy cũng đã gợi lên bài học muôn thuở về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật: Cuộc đời sinh ra nghệ thuật nhưng cuộc đời và nghệ thuật không đồng nhất, người nghệ sĩ phải biết đi sâu vào hiện thực, vượt qua những hiện tượng nhất thời để khám phá bản chất, và phải nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Nguyễn Minh Châu quan niệm về vấn đề này: “Cuộc đời và nghệ thuật là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Nam Cao nói: “Sống đã rồi hãy viết”. Chế Lan Viên: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Đó là vấn đề muôn thuở của nghệ thuật, là trách nhiệm mà cũng là thiên chức cao cả của người nghệ sĩ. Còn qua Đẩu, nhà văn gửi gắm bức thông điệp và cuộc sống, đừng nhìn cuộc sống đơn giản, phiến diện, hời hợt. Đó là cái “vỡ ra” trong đầu vị Bao Công phố huyện, khi những lí lẽ sắc sảo của một người có học, một chánh án huyện, phải thua lí lẽ của tình mẫu tử, của lòng mẹ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con”, “Vui nhất là thấy lũ con tôi chúng nó được ăn no”. Người đàn bà không thể bỏ người đàn ông vì đàn con, bà cần lão để “chèo chống khi phong ba”, để nuôi đặng một đàn con “trên dưới chục đứa”. Đó là cái uẩn khúc của tình người mà Đẩu không thể ngờ trước được, đã đánh tan giải pháp hời hợt, thiếu thực tế của anh, là khuyên người đàn bà bỏ chồng. Chính điều đó đã làm sáng lên giây phút nhận thức trong Đẩu. Đằng sau cái đơn giản là cái phức tạp, và để giải quyết mọi chuyện không chỉ nhìn bằng lý thuyết suông, mà phải biết lắng nghe, thấu hiểu, nắm rõ hiện thực của cuộc đời, của lòng người để tìm ra nguồn gốc và giải quyết tận gốc vấn đề. Trong cuộc sống, cần nhìn nhận con người trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đặt trong quan hệ hàng ngày để nhìn ra bản chất đích thực của họ. Tình huống nghịch lý và tình huống nhận thức góp một vai trò quan trọng trong việc làm nên thành công của tác phẩm. Về nội dung, tình huống giúp tác phẩm thực hiện chức năng cao cả của văn chương, trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống”, giúp con người khám phá, nhận thức hiện thực, cuộc đời. Tình huống truyện còn là chìa khóa để khám phá tư tưởng, tình cảm của nhà văn, đặc biệt là cái nhìn nhân đạo của Nguyễn Minh Châu. Qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ cái tâm của một nhà văn chân chính, một “nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-khốp) khi khắc họa nhân vật bằng cái nhìn khách quan, thấu hiểu, thấp thoáng đâu đó sau vẻ cam chịu của người phụ nữ, trong cử chỉ vuốt ve gương mặt mẹ của thằng Phác, tiếng nguyền rủa rên rỉ của người đàn ông, ta bắt gặp một Nguyễn Minh Châu trầm lắng với những nỗi đau nhân thế, ta bắt gặp những giọt nước mắt xót xa, thương cảm. Phải thấu hiểu, phải yêu thương con người, Nguyễn Minh Châu mới có thể nhập thân vào nhân vật và diễn đạt những chuyển biến tâm lý tinh vi, phức tạp, một cách tinh tế, chân thực, xúc cảm. Về nghệ thuật, tình huống truyện làm nên kịch tính và sức hấp dẫn cho tác phẩm, cuốn hút người đọc vào mạch diễn biến câu chuyện, kích thích trí tưởng tượng của họ, thôi thúc họ khám phá những chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện bằng một nghệ thuật ngôn ngữ độc đáo, ngôn ngữ kể chuyện sinh động, giàu tính triết lý, ngôn ngữ nhân vật chân thực, phù hợp với tính cách và hoàn cảnh. Cách lựa chọn chi tiết để xây dựng tình huống cũng rất tinh tế – thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu – “người mở đường tinh anh và tài hoa” của văn học thời kì đổi mới. “Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sedrin) Thời gian trôi qua, những gì vô nghĩa sẽ bị sàng lọc, trôi vào lãng quên, nhưng những giá trị đích thực sẽ còn sống mãi, qua thời gian sẽ càng chứng minh được sức sống và giá trị của mình. Phải, người đời nay và người đời sau sẽ mãi không quên một Nguyễn Minh Châu cùng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, đã dẫn dắt người đọc vào cuộc phiêu lưu kì thú nhưng cũng đãm nước mắt, vào quá trình khám phá tâm hồn con người và hiện thực cuộc sống. Những bài học về cuộc đời và nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu gửi ắm sẽ còn sống mãi, như một kim chỉ nam, một ngọn hải đăng kiêu hãnh và sừng sững, dẫn đường cho những cánh buồm nghệ sĩ trẻ, tiếp thêm cho những nghệ sĩ đời sau sức mạnh, niềm tin, ý chí và nghị lực để bước tiếp trên con đường mình đã chọn. Pautopsky từng trăn trở: “Dù ai nói với bạn, thì hãy luôn tin rằng cuộc sống này tốt đẹp”. Niềm tin vào cuộc sống và con người, phải chăng đó là món quà kì diệu nhất mà Nguyễn Minh Châu đã để lại?