1. Tác giả Tô Hoài: Tô Hoài thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành từ trước Cách mạng tháng Tám. Ông là nhà văn sinh trưởng ở Hà Nội nhưng lại thành công với những sáng tác về cuộc sống con người miền núi Tây Bắc. Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau. 2. Tập truyện Tây Bắc: Gồm 3 truyện ngắn viết về đề tài cuộc sống và con người Tây Bắc: – Cứu đất cứu mường – Mường Giơn – Vợ chồng A Phủ 3. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” : – Hoàn cảnh sáng tác: Viết năm 1952, là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc kéo dài 8 tháng của nhà văn. In trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm đạt giải nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam – Bố cục gồ 2 phần: + Phần 1: chủ yếu nói về cuộc đời Mị và A Phủ khi còn ở Hồng Ngài, bị chà đạp và đày đọa trong nhà thống lí Pá Tra cho đến khi Mị cởi trói ho A Phủ và hai người cùng bỏ trốn đến Phiềng Sa. + Mị và A Phủ làm cách mạng ở Phiềng Sa. * Tóm tắt tác phẩm Vợ chồng A Phủ: Câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận của vợ chồng A Phủ, người Mèo, ở vùng núi phía bắc nước ta trong thời kì thực dân Pháp đô hộ. Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Lúc đầu Mị còn phản kháng nhưng sau dần cam chịu. Đêm tình mùa xuân, Mị muốn đi chơi bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà. Cũng đêm đó A Phủ vì đánh nhau với A Sử – con trai Pá Tra, bị xử phạt không có tiền trả nên cũng phải đi ở trừ nợ cho nhà thống lí. Cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài không khác gì những con vật nuôi trong nhà Thống lí Pá Tra. Một lần vì để hổ ăn thịt mất bò, A Phủ bị nhà thống lí bắt trói đứng giữa sân. Trong lúc chờ chết, A Phủ được Mị cởi trói. Hai người trở thành vợ chồng và trốn sang Phiềng Sa. Tại đây A Phủ gặp A Châu -người cán bộ CM, do được A Châu giác ngộ, A Phủ nhiệt tình tham gia du kích. Vợ chồng A Phủ cùng đồng chí bảo vệ quê hương. Toàn bộ câu chuyện có thể biểu hiện như sau: + Ở Hồng Ngài: Mị (đẹp, thổi sáo giỏi) → làm dâu gạt nợ (nhà Thống lí Pá Tra ) → cởi trói cứu A Phủ A Phủ (mồ côi, khỏe) → đánh A Sử → đi ở trừ nợ → làm mất con bò → bị trói tàn nhẫn → được Mị cứu thoát + Trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa → thành vợ chồng → giác ngộ Cách mạng → đánh giặc bảo vệ bản làng. Phân tích tác phẩm: Tô Hoài là nhà văn lớn nhất của nền văn học Việt nam thế kỉ 20. Suốt đời ông cần mẫn nghiên cứu, phê bình và sáng tác. Ông sáng tác trên nhiều thể loại. Ở thể loại nào ông đạt được những thành tựu xuất sắc. Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau. Trước cách mạng ông chủ yếu hướng ngòi bút của mình về nông thôn nghèo và thế giới loài vật, sau cách mạng ông hướng đến những vùng nông thôn rộng lớn, đặc biệt là Tây Bắc. Vợ chồng A Phủ là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của ông. Tác phẩm đã lên án tố cáo chế độ phong kiến miền núi chà đạp, áp bức quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Bên cạnh đó tác phẩm cũng thấm đẫm tinh thần nhân đạo: Cảm thương cho số phận những người lao động nghèo bát hạnh, bị tước đoạt đi quyền sống, bị hành hạ cả thể xác và tinh thần. Đồng thời trân trọng ngợi ca sức sống tiềm tang, luôn biết hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn. 1. Hình tượng nhân vật Mị: Giới thiệu nhân vật Mị: – Cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa. – Lúc nào cũng vậy…cúi mặt, mặt buồn rười rượi. – Hình ảnh khắc khổ của mị hoàn toàn đối lập với cảnh giàu có của nhà thống lí Pá Tra → Cách giới thiệu gây ấn tượng, tạo tình huống có vấn đề. Báo hiệu số phận ngang trái của nhân vật. Cuộc đời và số phận của mị: * Trước khi Mị về làm dâu gạt nợ: – Mị thổi sáo giỏi – Mị uốn chiếc lá…thổi sáo. – Có biết bao nhiêu người mê… – Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị – Mị cũng có người yêu => Mị là người con gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, thổi lá. – Con nay đã biết cuốc nương…giả nợ thay cho bố. – Bố đừng bán con cho nhà giàu => Mị có khát vọng tự do. Mị bị thống lí Pá Tra lừa bắt về làm con dâu gạt nợ: Khi linh cảm mình có nguy cơ bị biến thành một thứ con nợ chung thân, Mị đã nghĩ cách cứu mình (cũng là cứu tình yêu, hạnh phúc của Mị). Nhưng sự thông minh của một cô gái mới lớn không thắng được hoàn cảnh và mưu chước thâm độc của cha con thống lí. Thời gian đầu về làm dâu: Có đến hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Có ý định tự tử bằng lá ngón → Không cam chịu mà phản kháng. Phải sống với kẻ mà mình không yêu là nỗi khổ và là nỗi đau của đời Mị. Hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc. Rồi khi không thể chịu đựng hơn được nữa, Mị tính chuyện ăn lá ngón để tìm sự giải thoát. Người con gái hiếu thảo ấy, trước khi chết về lạy cha và cũng để xin cha cho mình được chết. Mấy lời thống thiết của người cha già chịu nhiều khổ não trong đời đã khiến Mị đành phải nén nỗi buồn của riêng bản thân Mị xuống. Cô quay trở lại nhà thống lí Mấy năm sau khi về làm dâu: – Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi – Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa… – Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi – Nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt,… – Con ngựa, con trâu…cả đêm cả ngày: giá trị hiện thực → Bóc lột sức lao động – Lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa – Căn buồng Mị: kín mít, cửa sổ là một lỗ vuông bằng bàn tay…: nhỏ bé, tối tăm, chật hẹp – Mị nghĩ rằng cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi => Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động. Sự lặng lẽ, âm thầm, cam chịu nhẫn nhục của Mị. Mị bị tê liệt hết mọi cảm xúc tinh thần, cả ý thức về bản thân và những mong muốn thay đổi số phận, sống trong vô thức: giá trị tố cáo. Mị chọn cánh sống âm thầm như một chiếc bóng hoàn toàn trái với bản tính của mình trước đây. Mị bất lực, hoàn toàn buông xuôi cuộc đời cho số phận nghiệt ngã. Mị bị biến thành một cong cụ lao động trong nhà thống lí. Đó là nõi cực nhục cùng cực mà nhân vật buộc phải cam chịu. Nhưng sự e chề của kiếp sống tối tăm chưa dừng lị ở đó. Mị còn phải chịu nỗi đau về tinh thần triền miên từ đêm này qua đêm khác, từ năm này qua năm khác. Căn buồng của người phụ nữ Mông thông thường là nơi họ hưởng chút hạnh phúc ít ỏi của thân phận làm người, từ làm con, làm dâu rồi đến làm mẹ. Căn buồng của Mị ở nhà thống lí chỉ là một ngục thất giam cầm một tù nhân. Kết quả của hoàn cảnh sống thật chua xót: “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cố nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “là con trâu con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang ở cái tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thôi”. Ai có thể ngờ cô gái trẻ trung, yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định ăn để không chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Mị như một tâm hồn tâm câm lặng. Cái cô Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy dường như đã chìm hẳn vào dĩ vãng. Quả thật hoàn cảnh quyết định tính cách. Đây là bản cáo trạng hùng hồn về nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ bóc lột phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lí nơm nớp lo “con ma nhà thống lí” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về “cúng trình ma” một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cô đã trốn thoát khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào trong nghệ thuật “ngu dân” để dễ trị. Tâm trạng Mị khi mùa xuân đến: – Khung cảnh: những chiếc váy hoa đem phơi sặc sỡ, tiếng sáo thiết tha: tác động đến tâm hồn Mị – Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi: dần thoát khỏi tâm trạng thờ ơ, trạng thái vô thức. Tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân: – Mị uống rượu: uống ực từng bát: dần ý thức về số phận mình. – Mị thấy phơi phới trở lại…vui sướng…:sống lại những cảm xúc tinh thần – Nếu có nắm lá ngón…ăn cho chết…: Mị ý thức nỗi đau của thân phận mình. – Tiếng sáo gọi bạn: chi tiết nghệ thuật, có khả năng đánh thức tâm hồn Mị, khiến Mị sống lại với những kỉ niệm đẹp ngày trước, nhớ rằng mình vẫn là một con người, vẫn có quyền được sống, được hạnh phúc, muốn đi chơi. – Hành động chuẩn bị đi chơi: Bỏ thêm mỡ vào đĩa đèn. Quấn lại tóc, lấy váy hoa → Hành động phản kháng, khát vọng tự do, khát vọng sống trỗi dậy. – Việc Mị bị trói: + Dùng cả thúng sợi đay, trói đứng vào cột: sự độc ác của cường quyền + Tâm trạng: Như không biết mình đang bị trói, đi theo tiếng sáo gọi bạn: A Sử chỉ trói được thân xác Mị. Trở về thực tại: Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa: Ý thức được nỗi đau, cả thân xác và tinh thần => Khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Chính khát vọng sống là nguồn lực mãnh liệt đưa bước chân Mị đi tới. Chính rượu là tác động khiến Mị phút chốc quên hết sở hãi và khổ đau. Hai sức mạnh hòa quyện vào nhau cùng đánh thức ở Mị tình yêu cuộc sống và khát vọng sống đúng nghĩa. Mị nhận ra cuộc sống tồi tệ ở hiện tại. Nhưng Mị không thể làm gì (có lẽ là không dám làm gì) hơn. Đau đớn quá, Mị lấy rượu ra uống. Mị đã uống rượu một cách khác thường. Cô uống ừng ực từng bát như thể rượu không hề chạm vào miệng mà đổ thẳng xuống cổ họng. Cô uống rượu mà như uống sự uất hận của mình, đắng cay và đâu đớn đến vô tận. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín, mụ mị vì sự đày đọa. Cách uống ừng ực như thế, khiến người ta nghĩ: như thể cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua, uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Mị với cõi lòng đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà hết sức chân thật: nàng muốn chết với nắm lá ngón của rừng thiêng. Có lẽ, lúc này, cái chết đối với Mị còn dẽ chịu hơn nhiều. Chính niềm khao khát sống đang hồi sinh trong Mị mà không thể sống cùng nó được, con người cảm thấy một sự tồn tại vô nghĩa lí thì hủy diệt bản thân là tất yếu. Tiếng sáo biểu hiện cho nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị. Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân. Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên. Nó tạo giá trị nhân đạo của tác phẩm. Sở trường phân tích tâm lí sắc sảo cho phép nhà văn lách sâu vào trong những bí mật trong đời sống nội tâm của nhân vật, phát hiện ra nét đẹp và nét riêng của tính cách. Từ đó nhà văn nắm giữ được quy luật vận động tâm lí của nhan vật và dự đoán được hành động của nhân vật sau mỗi sự biến đổi. Khi sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong tâm hồn nhân vật được hồi sinh, nó sẽ là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu chuyển hóa thành hành động phản kháng táo bạo ở những nạn nhân của giai cấp thống trị, họ sẽ đứng lên chống lại sự chà đạp, tự cứu lấy cuộc đời mình. Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ: – Lúc đầu thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên “A Phủ bị trói đứng giữa sân mấy đêm liền. Cạnh đấy, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết…thế thôi”: dửng dưng, vô cảm trước nỗi đau của đồng loại – Đêm ấy, hình ảnh dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức tâm hồn Mị: nhớ đến năm trước mình bị trói: sự đồng cảm. Suy nghĩ: “Chúng nó thật độc ác”: căm giận; “Người kia việc gì mà phải chết”: xót thương → Nhận thấy bao uất ức, phi lí + không sợ hình phạt của Pá Tra: ý thức căm thù và lòng nhân ái đã giúp Mị chiến thắng nỗi sợ hãi + Cắt dây trói cho A Phủ: Hành động dũng cảm, phản kháng quyết liệt; đồng thời cũng là hành động tự cắt dây trói cứu lấy cuộc đời mình; đứng lặng trong bóng tối: giằng xé trong lòng; vụt chạy theo A Phủ- tự giải thoát mình, đến với tự do: hành động hợp lí, kết quả tất yếu bởi khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt. => Sự phản kháng táo bạo, quyết liệt và sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị. Mị chính là hiện thân cho những kiếp đời nô lệ bị chà đạp và đày đọa đến cùng cực trong xã hội phong kiến miền núi. Cô còn có đời sống nội tâm âm thầm mà mãnh liệt. Ở đây, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn cũng đạt được những thành công lớn. Hình tượng nhân vật A Phủ: * Cuộc đời bất hạnh của A Phủ: – Lúc nhỏ: Mồ côi, sống lang thang => Bị bắt bán – bỏ trốn. – Lớn lên: Biết làm nhiều việc. Khoẻ mạnh, không thể lấy nổi vợ vì nghèo: Dám đánh con quan => Bị phạt vạ => làm tôi tớ cho nhà thống lý. Mải bẫy nhím để hổ ăn mất bò => Bị trói, bị bỏ đói… * Sức sống mãnh liệt của A Phủ: – Bị trói: Nhay đứt 2 vòng dây mây – Được cởi trói quật sức vùng chạy: Khát khao sống mãnh liệt. => Cuộc đời A Phủ cũng là một cuộc đời nô lệ điển hình. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo: 1. Giá trị hiện thực: – Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng Mị, A Phủ). – Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi ( dẫn chứng cha con thống lí Pá Tra) – Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ ) 2. Giá trị nhân đạo: – Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi. – Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần quyền). – Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật Mị- trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ) – Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình ( dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài). Đặc sắc nghệ thuật: 1. Nghệ thuật kể chuyện: – Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp. – Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ. 2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật : – Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật. 3. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc : – Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài). – Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện) Ý nghĩa chủ đề: Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đặt ra vấn đề số phận con người – những con người dưới đáy xã hội – những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.