Phân tích vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    • Mở bài:
    Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại hơn 700 bài thơ chữ Hán và chữ Nôm. Các bài thơ được tập hợp trong Bạch vân am thi tập và 170 bài thơ chữ Nôm trong Bạch vân quốc ngữ thi. Thơ ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời phê phán thói đời đen bạc trong xã hội. Bài thơ Nhàn là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho lối sống, một cách xử thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay trong thời đại có nhiều biến động dữ dội nhất của lịch sử.

    Một mai, một cuốc, một cần câu,
    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
    Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
    Người khôn, người đến chốn lao xao.
    Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
    Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
    • Thân bài:
    Nhan đề của bài thơ Nhàn do người đời sau đặt cũng là một sự tri ân với tác giả. Chữ Nhàn trong bài nhằm chỉ một quan niệm, một cách xử thế. Vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ được thể hiện qua cách nghĩ, cách sống trong sạch, khiết tịnh và đầy lạc quan của bậc tài danh:

    Một mai, một cuốc, một cần câu,
    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
    Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
    Người khôn, người đến chốn lao xao.

    Trong lịch sử, Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều, cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Dưới thời phong kiến của Việt Nam, ông là một trong số rất hiếm văn nhân Nho gia không phải quan tướng nắm binh quyền và chưa từng cầm quân ra trận nhưng được phong tới tước Trình Quốc Công ngay từ lúc còn sống. Lúc từ quan, ông về ở ẩn nơi quê nhà, mở trường dạy học, sống gần gũi với thiên nhiên Bởi thế, thiên nhiên trong thơ ông mang một vẻ đẹp vừa hồn hậu, vừa triết lý cao sâu. Hai câu thơ đầu toát lên phong thái thoát tục của bậc tài danh giữa cuộc đời:

    “Một mai, một cuốc, một cần câu,
    Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”.

    Từ “một lặp lại ba lần làm hiện lên một cuộc sống đơn sơ, bình dị, không cầu kì vật chất. Tất cả đều là củ vườn quê, trong tư thế lao động. Câu thơ cho thấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao lao động chân chính, quý trọng sức lao động của con người. Của cải tạo ra phải bằng sức lao động và tâm hồn trong sáng của con người mới đích thực là của quý ở đời. Người quân tử tiếp thu cái mạch của đất, nhận lấy cái khí của trời để tạo tác nên khí chất cứng cỏi, thanh cao, thuần với tự nhiên.

    Tuy không sa đà vào học thuyết của Lão Tử, song Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thể hiện một lối sống “vô vi”: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Cái “vô vi” của Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa hẳn là phủ nhận mọi sự tồn tại của đời sống lý trí nhưng cũng tiệm cận đến sự thoát ly đời sống vật chất tiện nghi, đạt đến sự khiết tịnh của nhân tâm, một sự khiết tịnh thường thấy của các bậc nho gia. Xuất thân là bậc trí học thượng thừa, uy danh cũng đứng đầu thiên hạ, vị thế ấy có thể có được một cuộc sống tột bậc cao sang. Thế nhưng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sớm từ bỏ con đường quan trường, tìm kiếm một cuộc sống thanh tịnh, tu tâm dưỡng đạo, sống cuộc đời thanh bần, an lạc trong đạo triết của mình, tạo phúc cho thiên hạ. Một phần là bởi thời cuộc quá nhiễu nhương, chính pháp bị xem thường, phần chính là bởi ông yêu mến tự cảnh, muốn giữ gìn và phát huy minh triết của Nho gia. Bởi thế mà ông đã đặt mình ở nơi vốn còn tồn chứa nguồn mạch sự sống chân thiện để tĩnh tâm:

    “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
    Người khôn, người đến chốn lao xao”.

    “Nơi vắng vẻ” là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn. Đó cũng là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người. Mọi mối quan hệ đều bình đẳng, trong sạch và tĩnh lặng. “Chốn lao xao” là chốn cửa quyền, sang trọng, ngựa xe tấp nập, kẻ hầu người hạ, bon chen, sát phạt. Nơi ấy, tham quyền thắng thế, đạo đức bị khinh bỉ, tiền bạc làm điên đảo con người.

    Trên cái nền mang tính triết luận, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự thán về bản thân, có vẻ như rất nghịch lý. Người “dại” thường tìm nơi vẳng vẻ. Người “khôn” thường thích đến chốn lao xao. Đây là cách nói ngược vô cùng hóm hỉnh nhưng sâu cay.

    Nhìn vào cuộc đời, suy tư của Nguyễn Bỉnh Khiêm không khỏi khiến chúng ta giật mình. Người “dại” ấy thực chất là người “khôn”. Danh lợi, quyền lực, địa vị vốn là những ma lực không ngừng quyến rũ, lôi kéo con người đến tội lỗi. Nó làm khởi phát lòng tham, khiến con người đánh mất thiện tính, tranh đoạt không biết mệt mỏi. Người “dại” biết quay lưng lại với danh lợi, tìm sự thư thái cho tâm hồn, sống ung dung hoà nhập với thiên nhiên, tránh được những hiểm nguy ở đời quả thực là “khôn”. Còn người “khôn” tìm đến chốn lao xao, để cho ngọn lửa tham tàn thiêu đốt nhân tính, tự trói buộc mình vào ma lực của đồng tiền, cuồng quay điên đảo thì ấy là khôn dại:

    “Khôn được ích mình, đừng để dại,
    Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn.
    Khôn mà hiểm độc là Khôn Dại,
    Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn”.

    (Khôn dại – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

    Cái khôn của con người không phải tính bằng việc hơn thua bao nhiêu tuổi mà nó nhìn xoáy vào chiều sâu cảm nhận của mỗi người, cách nhìn sự việc và xử sự nơi cuộc sống. Đừng để tâm hồn ta lụi tàn ngay từ khi còn sống. Chính lòng tham khiến ta không còn nhận biết hay có thể thưởng thức cái đẹp chân chính ở đời. Quan niêm sống thanh cao, thoát tục khẳng định vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là vẻ đẹp của trí tuệ phi thường, vượt lên trên mọi cám dỗ và ràng buộc.

    Thoát lên trên những cái tầm thường của cuộc sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm đến điểm nương tựa cho tâm hồn, cốt cách và cuộc đời mình, không gì khác ngoài một cuộc sống gắn kết với tự nhiên đầy sinh lực và đạo triết của mình:

    “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
    Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

    Dường như, ta không thể tìm thấy một sự khiên cưỡng nào trong quan niệm sống hay lối sống của trạng Trình. Ông đặt mình trong vũ trụ như nhiên để vận động luân hòa. Mùa nào thức ấy, việc ấy, không có chi phải sầu não, lo âu. Sống thuần hậu phải chăng là cách sống mà các vị cao nhân, ẩn sĩ luôn tu tập:

    “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
    Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.

    Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy các sự vật hết sức giản dị, gần gũi để làm nổi bật lên nét đặc trưng riêng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật có sẵn xung quanh tác giả, mang đậm bản chất thôn dã. Đó là những sản vật do con người làm ra hoặc thiên nhiên ban tặng. Sinh hoạt của ông cũng hết sức nhịp nhàng, tuần hoàn theo dòng chảy của thời gian: tắm hồ sen, tắm ao. Cung cách sống thật khiêm nhường, bình dị của một bậc trí thức đại tài. Mọi nhu cầu của cuộc sống luôn được đáp ứng đủ không thừa cũng không thiếu. Cuộc sống tuy có phần đạm bạc nhưng hết sức thanh nhàn, giải phóng con người khỏi phường danh lợi, đem con người đến gần hơn với tự nhiên, hòa hợp với vạn vật. Nguyễn Trãi ở thế kỉ XIV cũng đã từng gây dựng và đề cao:

    “Ao cạn vớt bèo cấy muống
    Đìa thanh, phát cỏ, ươm sen”.

    Và trong lúc thảnh thơi, con người lại tận hưởng cái đẹp của cuộc sống:

    “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
    Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.

    Có rượu tìm đến cội cây, nơi quang đãng, vắng lặng đẻ uống, để say thỏa thích, mặc sự đời trôi chảy, nhìn mọi người tranh đoạt phú quý mà cười khinh miệt. Uống rượu thì đâu cần chỉ kẻ hầu người hạ, bàn tiệc linh đình, đàn hát xôn xao. Uống rượu để thưởng nhận cái nồng say của rượu, để thưởng lãm cảnh vật, để thức ngộ chân lý cuộc đời: “phú quý tựa chiêm bao”. Nguyễn bỉnh Khiêm nhìn cuộc đời như là một giấc mộng. Cuộc đời thực chính là những tháng ngày sống đúng nghĩa, sống vì con người, vì nhân loại.

    Cái say và giấc chiêm bao của tác giả thể hiện quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Công danh, phú quý, cái mà mọi người đang tranh giành nhau, đối với ông chỉ như một giấc mơ chẳng có ý nghĩa gì. Cái tồn tại mãi mãi vĩnh viễn là thiên nhiên và nhân cách con người

    Câu thơ thể hiện quan điểm sống “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống “nhàn” là sống hòa hợp với tự nhiên, sống đạm bạc, nhàn tản, vui với thú điền viên thôn dã, xa lánh quyền quý, danh lợi để giữ cốt cách thanh cao. Để có thể sống “nhàn”, con người phải chiến thắng cái tham vọng của bản thân, trả mình về với thực thể tự nhiên trong sạch và cao quý, không ngừng thanh lọc tâm hồn vươn tới chân, thiện, mĩ. Điều này cho thấy ông là một người có trí tuệ uyên thâm, nhân cách cao cả, bản lĩnh phi thường hiếm có.

    Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên”, thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.

    Xây dựng hình ảnh con người tự do vốn là tâm điểm của nền văn học thế kỉ XVI. Ở thời đại này, vì lực hút của triều đình phong kiến, Nho giáo độc tôn mạnh, nên gần như hút về tâm là quỹ đạo chủ đạo. Nguyễn Bỉnh Khiêm không bị hút về tâm nhưng cũng không hẳn ly tâm, nhờ đó tạo nên chính sự tự chủ cho người thức giả. Ông ung dung, tự tại, muốn ra thì ra, muốn về thì về, không phụ thuộc vào ai hay vào thứ gì. Cũng như các sĩ tử khác, ông trải qua quan trường để thực hiện cái chí của đáng nam nhi. Rồi khi thấy cần phải xuất thế ông liền chủ động rút lui, không lưu luyến gì.

    Chính phong thái ung dung chủ động kia đã tạo nên tiếng nói tự do, tự tại trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dòng mạch tư duy tự do tự tại quy tụ nên hình tượng con người không bị lệ thuộc vào quyền lực nữa mà ít hay nhiều đã là con người giải thoát. Cần phải thừa nhận rằng trong cái “nhàn”, cái thoát tục của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một phương diện gọi là tự tại. Nhàn ở đây không là ẩn, chưa phải xã hội thối nát đến mức mình không thể chấp nhận nổi mà trở về chăm nom vài luống cúc, hoặc lẩn trốn vào cửa thiền, hoặc tìm quên trong thú vui ở “nơi vắng vẻ” với cần câu, chén rượu. Nhàn, bởi mình cảm thấy phải làm chủ cuộc sống của mình, cho nên tự mình trở về an nhàn nghỉ ngơi. Nhưng khi triều đình kêu gọi đi đánh bọn phản loạn thì ông sẵn sàng và hăng hái ra giúp. Nhàn trong trường hợp này là nhàn tự tại. Nhàn tự tại chính là nét khác với nhàn ở nhiều thời đại khác là thứ nhàn chỉ muốn lánh đục, lánh triều đình, “dũng thoái”. Nhàn tự tại không cố chấp mà hồn nhiên hơn.
    • Kết bài:
    Vật chất làm nên giá trị sống nhưng không thể quyết định giá trị của con người. Chiến thắng sức cám dỗ của giàu sang, phú quý là chiến thắng hiển hách của các bạc hiền nhân. Nguyễn bỉnh Khiêm đã chọn một lối sống thanh cao, thoát tục, không để vật chất làm cho vấy bẩn tâm hồn. Thế nhưng, thái độ nhàn của Nguyễn bỉnh Khiêm không phải là cái nhàn yếm thế. mà là cái nhàn hiện thế, rất tích cực và mạnh mẽ. Ông vẫn ở trong cuộc đời, không xa rời trách nhiệm của người làm trai đối với đất nước.