Phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    • Mở bài:
    Sóng là bài thơ tiểu biểu của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng tình yêu với những cung bậc tình cảm phong phú và vẻ đẹp tâm hồn củ người phụ nữ trong tình yêu, hồn nhiên chân thật, say đắm nống nàn, đôn hậu, thủy chung. Tình yêu trong “Sóng” vừa mang tính chất tế nhị, kín đáo của truyền thống vừa rất sôi nổi, mãnh liệt hết sức hiện đại.
    • Thân bài:
    “Tình yêu mang tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời” là tình yêu gắn liền với những đặc điểm cảm xúc, tình cảm có tính quy luật. Đó là quy luật tình cảm thường gặp trong tình yêu của lứa đôi như nhớ nhung, giận hờn, khao khát …

    Tình yêu “hiện đại” là tình yêu đề cao cái tôi cá nhân, đề cao những cảm xúc, khao khát mãnh liệt vượt qua những giới hạn. Đó là cá tính mạnh mẽ của người phụ nữ thế kỷ hai mươi bứt phá những nhỏ hẹp đời thường để đến với tình yêu rộng lớn bao la. Hiện đại ở đây gắn liền với quan niệm tình yêu tự do chứ không phải là thụ động như tình yêu truyền thống.

    Trước hết, “Sóng” thể hiện một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”:

    Tình yêu ấy có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất nữ tính – một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ nữ. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông, giận hờn vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – lặng lẽ” là đối cực của sóng nhưng cũng là những cảm xúc nội tâm đầy phức tạp, mâu thuẫn nhưng cũng rất thống nhất hài hòa trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu:

    “Dữ dội và dịu êm
    Ồn ào và lặng lẽ”

    Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là sóng, khiên sóng luôn dạt dào, không bao giờ đứng yên. Phép nhân hóa “Sóng tìm ra tận bể”gợi liên tưởng sóng như có ý thức, có khát vọng tìm đến cái rộng lớn, bao la. Những đặc điểm này của sóng đã có “từ ngày xưa và ngày sau vẫn thế”, cách nói khẳng định, nhấn mạnh, đây là bản chất muôn đời của sóng.

    Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng tình yêu trong tâm hồn đầy bí ẩn của người con gái, khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy sóng chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng tình yêu nhịều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ. Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn.

    Tương tự thế, trái tim người con gái khi yêu cũng tự nhận thức được những biến động khác thường của lòng mình, khao khát vượt ra giới hạn chật hẹp cô đơn của cái tôi cá nhân, tìm đến sự rộng lớn bao la của tình yêu thương giống như hành trình của sóng từ sông ra bể. Hình ảnh ẩn dụ này cũng gợi đến những khát khao, suy tư, trăn trở trong trái tim xôn xao, rạo rực tình yêu của người con gái.

    Tình yêu truyền thống không thể thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy chung. Nếu thủy chung là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ lại là sức sống của tình yêu:

    “Con sóng dưới lòng sâu
    Con sóng trên mặt nước
    Ôi con sóng nhớ bờ
    Ngày đêm không ngủ được
    Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức”

    Khổ thơ trùng điệp hình ảnh những con sóng, gợi nỗi nhớ nồng nàn với nhiều cung bậc. Có khi, mặt biển lớn lao như biển cả, có lúc lại da diết, triền miên với thời gian, ngày đêm không ngủ được, lại có lúc trải rộng thiết tha với không gian phương Bắc, phương Nam và lại có lúc cũng không giấu nổi nỗi khắc khoải như con sóng nổi trên mặt nước. Và đôi khi, nỗi nhớ cũng chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quất trong lòng như con sóng ngầm dưới biển sâu.

    Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” tình yêu đã lấp đầy con tim, khối óc, trở thành lẽ sống, trở thành khát vọng của cả cuộc đời. Hình ảnh sóng được nhân hóa mang “tình em” và“nỗi nhớ” của em thật thi vị. Từ cảm “ôi” xuất hiện giữa dòng thơ như một tiếng lòng rung rung giữa niềm nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ được diễn tả trực tiếp qua ẩn dụ sóng đã da diết, sóng nhờ bờ đêm ngày, sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy tự nhiên, hồn nhiên, say đắm nhưng dường như vẫn chưa đủ mà còn được thể hiện trực tiếp qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “em”:

    “Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức”

    Cấu trúc thơ thay đổi, cả bài là những khổ bốn dòng, nỗi nhớ lại được diễn tả bằng khổ thơ 6 dòng, đã phơi lộ cái tôi riêng của người nữ sĩ – một nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu. Nó nồng nàn, đằm thắm hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ vì nó không chỉ tồn tại trong ý thức, mà dường như còn len lõi vào trong tiềm thức, xâm nhập cả vào trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.

    Nỗi nhớ ấy tạo độ bền cho lòng chung thủy:

    “Dẫu xuôi về phương bắc
    Dẫu ngược về phương nam
    Nơi nào em cũng nghĩ
    Hướng về anh – một phương”.

    Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thử thách, khó khăn phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều “phương bắc phương nam” đầy cách xa trắc trở, dù thiên nhiên trời đất đổi thay “xuôi bắc ngược nam” nhưng nơi nào có “anh”, với“em”“hướng về anh một phương” bằng tình yêu thủy chung, duy nhất. Nỗi nhớ ở đây cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn dạt dào như những con sóng triền miên dai diết vô hồi vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài gợi đến nhịp của sóng. Nhưng rõ nhất, sôi nổi nhất, mãnh liệt nhất chính là ở đoạn thơ này. ngược cũng là xuôi. Trái tim tình yêu của em luôn

    Đã yêu là tin và người phụ nữ trong tình yêu ngàn đời luôn tin điều đó. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng biển. Sóng ở mãi tận giữa vô cùng, gặp muôn ngàn bão tố nhưng cuối cùng “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở” thì cuối cùng em tin tình yêu của chúng ta sẽ đến được cùng nhau.

    Qua hình tượng sóng và toàn bộ bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình. Ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung:

    “Sông không hiểu nổi mình
    Sóng tìm ra tận bể “

    Tình yêu hiện đại chính là khao khát tự lý giải bản thân và khao khát được dâng hiến và hi sinh.

    Khi tình yêu đến có một tâm lí rất tự nhiên và thường tình là ng ta luôn có nhu cầu tự tìm hiểu. Con người đã từng có những khám phá vô cùng kì diệu về tự nhiên nhưng tự hiểu về chính mình lại rất khó. Hiểu mình trong tình yêu lại càng khó hơn bởi tình yêu là một trạng thái tâm lí khác thường, đầy bí ẩn và huyền diệu, nó có những lí lẽ riêng của con tim mà lí trí thông thường không thể lí giải được:

    “Trước muôn trùng sóng bể
    Em nghĩ về anh, em
    Em nghĩ về biển lớn
    Từ nơi nào sóng lên?

    Sóng bắt đầu từ gió
    Gió bắt đầu từ đâu?
    Em cũng không biết nữa
    Khi nào ta yêu nhau “

    Điệp ngữ “Em nghĩ” diễn tả sự thao thức suy tư của người con gái trước câu hỏi cội nguồn của sóng cũng như câu hỏi cội nguồn của tình yêu. Đó là câu hỏi của muôn đời và muôn người nhưng chưa bao giờ có lời đáp trọn vẹn. Thi sĩ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình đã phải mượn cảm hứng lãng mạn để lý giải tình yêu đó sao:

    “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
    Có khó gì đâu một buổi chiều
    Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
    Bằng hương nhè nhẹ gió hiu hiu”

    Hay Hàn Mặc Tử cũng thế, nhà thơ viết rằng:

    “Xin hãy làm thinh chớ nói nhiều
    Để nghe dưới đáy nứơc hồ reo
    Để nghe tơ liễu run trong gió
    Và để nghe trời giải nghĩa yêu”
    Băn khoăn: Tình yêu bắt nguồn từ đâu?”

    Bởi tình yêu là một tình cảm đẹp rất thật nhưng khó nói nên lời, cảm thấy rất rõ nhưng không dễ nắm bắt. Câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” không phải không giải thích được nhưng “em cũng không biết nữa” lại là cái lắc đầu nhỏ nhẹ, dễ thương, đầy nữ tính trước những cung bậc huyền bí của tình yêu. Xuân Quỳnh đã nắm bắt được một trạng thái tâm hồn rất chân thật, có tính chung cho mọi lứa đôi và biểu hiện nó thật duyên dáng. Tình yêu cũng như gió trời, sóng bể, cũng tự nhiên, hồn nhiên, bất ngờ và khó hiểu như thiên nhiên. Có thể nói, đây là cách phát hiện tình yêu rất nữ tính, trực cảm, kiểu Xuân Quỳnh.

    Trước Xuân Quỳnh, có lẽ chưa ng phụ nữ nào nói về tình yêu bằng những lời thiết tha, nồng nàn cháy bóng như thế. Những khát vọng yêu đương của người con gái trong thơ được bộc lộ mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị: sóng chỉ khao khát tới bờ, cũng như “em”“anh”. Tình yêu của người con gái ở đây trong sáng, mãnh liệt, thiết tha, giản dị, thủy chung, một tình yêu hết mình và quên mình. Đó là điều rất mới mẻ cả trong đời lẫn trong thơ thời ấy. Khát vọng tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ da diết khi còn trẻ, mà cả sau này, khi đã nếm trải nỗi đau, thất vọng trong tình yêu thì khát vọng tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vẫn thiết tha, giàu yêu thương. Trong bài Tự hát (1984) tức là gần những năm cuối đời của Xuân Quỳnh, bà viết: chỉ khao khát tới

    “Em trở về đúng nghĩa trái tim em
    Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
    Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
    Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”.

    Sóng với Xuân Quỳnh không chỉ là biểu tượng của khát vọng tình yêu mà còn là phương tiện để bà bộc lộ những suy tư về cuộc sống, tình cảm:

    “Ở ngoài kia đại dương
    Trăm nghìn con sóng đó
    Con nào chẳng tới bờ
    Dù muôn vời cách trở “.

    “Sóng vỗ bờ” là một chân lí tất yêu không gì thay đổi. Trên đại dương mênh mông có biết bao nhiêu con sóng và biết bao nhiêu trắc trở nhưng trăm ngàn con sóng vẫn tới bờ. Thế mà:

    “Cuộc đời tuy dài thế
    Năm tháng vẫn đi qua
    Như biển kia dẫu rộng
    Mây vẫn bay về xa”

    Cuộc đời tuy dài nhưng không phải vô cùng, như biển lớn mênh mông nhưng không phải vô tận. Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian, ý thức về thời gian gắn với nỗi âu lo, dù vậy, nhân vật trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử tích cực: âu lo nhưng không mấy thất vọng, mà chỉ khao khát nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại, sống hết mình, mãnh liệt với tình yêu để vượt qua và chiến thắng sự hữu hạn của thời gian và đời người:

    “Làm sao được tan ra
    Thành trăm con sóng nhỏ
    Giữa biển lớn tình yêu
    Để ngàn năm còn vỗ”

    Tan ra để hòa vào biển lớn của tình yêu, biển lớn của hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với tình yêu của mình. Ước muốn ấy của bà vừa diệu dàng, đôn hậu, vừa nồng nàn thiết tha. Bài thơ khép lại nhưng hai cặp hình tượng “sóng – bờ, em – anh” vẫn đan cài vào nhau, ngời sáng một vẻ đẹp vĩnh hằng của tình yêu.

    Với thể thơ năm chữ linh hoạt, bài thơ có khả năng gợi âm điệu dạt dào, vừa là cái nhịp nhàng của sóng biển, vừa là cái khắc khoải của sóng lòng với nhiều cung bậc cảm xúc. Xuân Quỳnh đã rất tài hoa trong việc ngắt nhịp, phối âm bằng trắc như những nhịp sóng khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội và nó cũng gợi đến những sự khắc khoải của sóng lòng. Phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh sáng tạo hòa trộn thanh âm, nhịp điệu của sóng với những trăn trở, khát khao, nhớ thương, hờn giận đan xen nối tiếp trong cõi lòng của người con gái khi yêu cũng tạo nên một yếu tố nhạc tính của thơ.
    • Kết bài:
    Hình tượng ẩn dụ “sóng” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. Nếu trước đó, Xuân Diệu, trong bài thơ Biển đã mượn hình tượng sóng để nói về tình yêu với những khát vọng của “anh”, của người con trai thì “Sóng” của Xuân Quỳnh lại là những khát vọng tình yêu của “em” – của người con gái với những cảm xúc tình cảm phong phú, phức tạp. Ở lớp nghĩa tả thực, hình tượng sóng được miêu tả cụ thể, sinh động với những trạng thái mâu thuẫn, trái ngược nhau. Còn ở lớp nghĩa biểu tượng, sóng như có hồn, có tính cách, tâm trạng, gợi đến sự phong phú trong tâm hồn ng con gái khi yêu – vừa say đắm vừa tỉnh táo, vừa nồng nhiệt vừa âm thầm, lúc sôi mãnh liệt, lúc lại kín đáo, sâu sắc vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa hét sức mới mẻ, hiện đại.
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Bài tham khảo:

    Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
    • Mở bài:
    Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ với nhiều tập thơ có giá trị lâu bền như Hoa dọc chiến hào (1968), Gió lào cát trắng (1974)… Thơ Xuân Quỳnh in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm, nhiều âu lo và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác tại cửa biển Diêm Điền – Thái Bình ngày 29/12/1967, khi Xuân Quỳnh đã trải qua những đau đớn, mất mát, đổ vỡ trong tình
    yêu. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968).
    • Thân bài:
    Bản chất, tính khí muôn đời của sóng, của tâm hồn người phụ nữ, của tình yêu được Xuân Quỳnh cảm nhận và thổ lộ chân thành qua hình tượng sóng. Khi “dữ dội”, lúc “dịu êm”, khi “ồn ào”, lúc “lặng lẽ”…Sóng là một thực thể mang trong mình nhiều đối cực, mềm mại mà cứng cỏi:

    “Dữ dội và dịu êm
    Ồn ào và lặng lẽ”

    Đó là bản tính muôn đời của sóng; mà cũng là của “em”, của người phụ nữ; là bản chất muôn đời của khát vọng tình yêu.

    “Ôi con sóng ngày xưa
    Và ngày sau vẫn thế”

    Cuộc hành trình quyết liệt, kì công và khát vọng lớn lao của sóng, của tâm hồn người phụ nữ, của tình yêu. Sóng mang trong mình những khát vọng lớn lao: luôn khao khát giã từ thế giới nhỏ hẹp, không hiểu mình để tìm đến một thế giới lớn lao, khoáng đạt, hiểu mình hơn. Đó là con sóng có cá tính và đầy bản lĩnh:

    “Sông không hiểu nổi mình
    Sóng tìm ra tận bể.”

    Hành trình của sóng từ sông ra biển lớn cũng là khát vọng tâm hồn của người phụ nữ. Trái tim người phụ nữ đang yêu không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, vị kỷ mà khát khao vươn tới một thế giới lớn lao, cao rộng có thể đồng cảm, đồng điệu với mình. Hành trình ấy cũng là khát vọng muôn đời của tình yêu: Tình yêu chân chính không
    chấp nhận những gì nhỏ hẹp tầm thường, luôn khao khát vươn tới những gì lớn lao, cao cả và hoàn thiện:

    “Ôi con sóng ngày xưa
    Và ngày sau vẫn thế
    Nỗi khát vọng tình yêu
    Bồi hồi trong ngực trẻ.”

    Tính chất bí ẩn trong cội nguồn của tình yêu, của thời điểm bắt đầu tình yêu. Với Xuân Quỳnh, sóng là hình tượng để suy tư về nguồn cội của tình yêu: Con sóng đến từ nơi nào? Tình yêu đến từ đâu? Khi nào ta yêu nhau? Những câu hỏi về khởi nguồn của sóng, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu cứ vang lên đầy khắc khoải, đầy trăn trở. Không thể nào giải đáp được.

    Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để truy tìm khởi nguồn của tình yêu nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bất ngờ, đầy bí ẩn, không thể lí giải. Vì vậy người phụ nữ này đã nói lên quy luật sâu xa của tình yêu bằng trực cảm, mà trực cảm thì im lặng là hơn: “Em cũng không biết nữa…”. Trong cái lắc đầu khe khẽ rất đáng yêu và hồn nhiên ấy có cách cắt nghĩa về tình yêu đầy nữ tính và rất Xuân Quỳnh. Tình yêu ấy thành thực đến tội nghiệp trong từng suy nghĩ.

    Những câu nghi vấn, câu phủ định vừa chứa đựng sự ngây thơ, bối rối, vừa như thú nhận sự bất lực của nhà thơ trước điều kì ảo của tình yêu. Càng khát khao khám phá ngọn nguồn của tình yêu, càng nhận thấy tình yêu luôn là ẩn số, chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim và tâm hồn, không thể giải thích bằng lí trí.

    Không dễ gì tìm ra cội nguồn của sóng, cũng như không dễ lí giải tình yêu bắt nguồn từ đâu, càng không thể dùng lí trí tỉnh táo để xác định chính xác thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Tình yêu đích thực khó lí giải được nguyên nhân. Tình cảm có lý lẽ riêng mà lý trí không thể giải thích được. Tình yêu là một hiện tượng tâm lý khác thường, bí ẩn, không thể giải thích bằng lý lẽ thông thường và mãi mãi là điều bí ẩn, là điều kì diệu của trái tim.

    “Sóng” là nỗi nhớ thương, niềm lo nghĩ và tình yêu chung thủy, thiết tha. Mượn hình tượng sóng xa bờ nhớ bờ, Xuân Quỳnh muốn diễn tả nỗi lòng “em” xa anh nhớ “anh”, diễn tả những cung bậc của một tình yêu trong xa cách.

    “Con sóng dưới lòng sâu
    Con sóng trên mặt nước
    Ôi con sóng nhớ bờ
    Ngày đêm không ngủ được.”

    Dù ở đâu “sóng” cũng thiết tha thương nhớ bờ xa: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ thương của “sóng” đối với “bờ” như trải ra dằng dặc khắp không gian, triền miên trong thời gian, một nỗi nhớ đã hóa thành niềm thao thức lớn. “Sóng” nhớ “bờ” đã thiết tha mãnh liệt, “em” nhớ “anh” càng say đắm gấp nồng
    nàn:

    “Lòng em nhớ đến anh
    Cả trong mơ còn thức”

    Đó là một nỗi nhớ đã ăn sâu vào trong tiềm thức, thường trực cả trong mơ, một nỗi nhớ cồn cào, da diết không thể nào yên, cứ nối tiếp nhau vô hạn, vô hồi như sóng. Không chỉ nhớ thương mà còn lo nghĩ: Người phụ nữ này luôn hướng về người mình yêu bằng cả trái tim và cả khối óc, bằng cả tâm hồn. Nơi nào em cũng nghĩ “Hướng về anh – một phương”. Dù xuôi ngược ở phương trời nào, người phụ nữ ấy cũng luôn hướng về người mình yêu như hướng về bến bờ nhớ thương duy nhất. Đó là tình yêu chung thủy, thiết tha. Dám chủ động bày tỏ tình yêu, nỗi nhớ của lòng mình → Táo bạo, hiện đại: “Xuân Quỳnh viết bài này “bợm” thật!” (Vũ Cao)

    Niềm tin mãnh liệt vào khả năng “tới bờ” của sóng; vào bản thân, vào sức mạnh của một tình yêu lớn. Yêu tha thiết, say đắm, chân thành nhưng Xuân Quỳnh vẫn luôn tỉnh táo khi nhận thấy đại dương, biển đời và tình yêu luôn có nhiều khó khăn, xa cách, có “muôn vời cách trở”. Luôn vững tin vào một tình yêu lớn, như tin những con sóng nhỏ nhất định sẽ đến được với bờ xa, dù phải trải qua muôn vời cách trở:

    “Ở ngoài kia đại dương
    Trăm nghìn con sóng đó
    Con nào chẳng tới bờ
    Dù muôn vời cách trở”.

    Những suy tư xa rộng về thời gian, về năm tháng, về quy luật vĩnh hằng của tình yêu. Sau những lớp sóng đan xen tới lui không dứt, biển lặng dần đi nhường chỗ cho những suy tư xa rộng về thời gian, về năm tháng, về quy luật vĩnh hằng của tình yêu:

    “Cuộc đời tuy dài thế
    Năm tháng vẫn đi qua
    Như biển kia dẫu rộng
    Mây vẫn bay về xa”

    Mượn quy luật tự nhiên (sóng biển, mây trời) để nhấn mạnh quy luật tình yêu. Xuân Quỳnh luôn tin Tình yêu có sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, thử thách của cuộc đời. Đó là một tình yêu sánh ngang với những quy luật vĩnh hằng, muôn thuở của thiên nhiên → trở nên lớn lao, cao cả, vĩnh hằng.

    Niềm khát khao được sống vĩnh viễn trong tình yêu, bằng tình yêu và cùng với tình yêu. Niềm khát khao được hóa thân thành những con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu để muôn đời được vỗ mãi vào bờ:

    “Làm sao được tan ra
    Thành trăm con sóng nhỏ
    Giữa biển lớn tình yêu
    Để ngàn năm còn vỗ”

    Niềm khát khao được sống vĩnh viễn trong tình yêu, bằng tình yêu và cùng với tình yêu. Đó cũng là niềm khát khao hòa nhập tình yêu cá nhân riêng tư vào trong tình yêu chung rộng lớn → Khát vọng tình yêu cao cả, không nhỏ hẹp, tầm thường. Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.
    • Kết bài:
    Sóng chính là bản tính và khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh, của người phụ nữ – một khát vọng vừa có vẻ đẹp truyền thống, vừa táo bạo, mới mẻ, hiện đại. Khát vọng ấy là hiện thân cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, tiêu biểu cho quan niệm mới mẻ, sâu sắc của Xuân Quỳnh về người phụ nữ. Bài thơ sử dụng nhiều cách nói, cách nghĩ theo lối ẩn dụ, nhân hoá, so sánh giàu ý nghĩa biểu tượng. Xuân Quỳnh cũng sử dụng thành công thể thơ 5 chữ với lối ngắt nhịp đều đặn, hài hoà cùng với giọng điệu sôi nổi, tha thiết, chân thành và cách kết cấu đan xen hình tượng Sóng- Bờ, Em – Anh… Lời thơ là âm điệu của sóng, cũng là âm điệu của một cõi lòng đang bị con sóng tình yêu khuấy động