Phân tích ý nghĩa và giá trị hồi thứ 14 trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái Mở bài: Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết chương hồi xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam. Đó cũng là tác phẩm văn xuôi đầu tiên có quy mô lớn của một bộ sử thi. Tác phẩm có giá trị cả về mặt văn học và sử học, được sáng tác bởi nhóm tác giả thuộc họ Ngô Thì, thường gọi là Ngô gia văn phái. Đoạn tích là hồi thứ 14 trong tác phẩm. Đoạn trích dựng lên bức tranh chân thực về hình ảnh anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và sự thảm bại của bọn xâm lược Thanh và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống. Thân bài: Toàn bộ đoạn trích được chia làm ba phần cơ bản. Phần 1: từ đầu “tháng chạp năm Mậu Thân”: Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân diệt giặc. Phần 2: Từ “Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh” đến “kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang trung. Phần 3: phần còn lại: sự thất bại của quang tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống. Dù trung thành với triều Lê, thế nhưng nhóm tác giả Ngô gia đã dành cho người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ cái nhìn đầy thiện cảm và những trang viết đẹp nhất. Hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung được khắc họa đậm nét, mang tính sử thi kì vĩ. Trước hết, ở Quang Trung Nguyễn Huệ là con người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán. Khi nghe tin giặc đánh chiếm đến tận Thăng Long, vị dũng tướng đã không hề nao núng, lo sợ mà định thân chinh cầm quân đi đánh ngay. Thế giặc tuy mạnh nhưng lòng yêu nước và sự căm thù đối với quân xâm lược khiến ông vô cùng giận dữ. Ở Quang Trung Nguyễn Huệ ta còn thấy mọi hành động của ông đều nhanh gọn, xong xáo quyết liệt. Trong vòng một tháng (24/11 – 30 tháng chạp), ông đã sắp xếp xong gọn mọi việc. Trước hết, thể theo nguyện vọng của các tướng lĩnh, Quang Trung dựng đài tế cáo trời đất lên ngôi hoàng đế. Tiếp đến, đốc xuất đại binh rầm rộ, cấp tốc tiến ra Bắc. Trên đường, còn dành thời gian gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn và lắng nghe mưu kế đánh giặc. Ông còn tổ chức tuyển quân lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoách hành quân đánh giặc. Quang Trung Nguyễn Huệ là vị vua có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan lực lưỡng giữa ta và địch. Biết khó thu phục lòng dân, hiệu triệu sức mạnh toàn quân trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược, ông mau chống lên ngôi vua để “chính vị hiệu”. Khi hành quân ra Bắc, ông còn kén lính, mở cuộc duyệt binh lớn nhằm làn cho cả nước biết ông đang vì đất nước mà xả thân để nhân tài khắp nơi tìm đến mà hợp sức đánh giặc. Qua lời phủ dụ quân lính, ta thấy rõ sự sáng suốt và nhạy bén của ông. Cả trong việc xét đoán và dùng người, cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, ông hiểu sở trường của tướng sĩ, khen chê đúng lúc, đúng người đúng việc. Ông mang cái tâm, cái trí của một bậc tiền nhân. Hiểu và dùng người đến mức tri âm tri kỉ. Quang Trung Nguyễn Huệ có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trong rộng hơn người. Mới khởi binh đã khẳng định: “phương lược đã tính sẵn…mười ngày sẽ đuổi được người Thanh”. Không những thế, lúc này, Quang trung còn nghĩ đến kế hoạch đối phó quân thanh sau chiến thắng sao cho vừa kiên quyết vừa nhu hòa để đảm bảo hòa bình đất nước. Quang trung nguyễn Huệ quả là người có tầm nhìn xa trong rộng, lo nghĩ đến cả tương lai. Tài dụng binh như thần của Quang Trung là sức mạnh cốt yếu làm nên chiến thắng oang liệt của đại quân. Với những sáng kiến chưa từng có, đại quân đã làm nên một cuộc hành quân thần tốc vàtiến đánh khiến cho kẻ thù không kịp trở tay. Ngày 25 tháng chạp xuất quân từ Huế. Ngày 29, vượt qua 350 km tới núi đè, đại quân đã tới tới Nghệ An. Tại đây, tuyển quân tổ chức đội ngũ, duyệt binh trong một ngày. Hôm sau ra Tam Điệp với đoạn đường hành quân 150km. So với những cuộc hành quan trong lịch sử, đó là một cuộc hành quân thần tốc chưa từng có. Tất cả đều đi bộ. Hành quân liên tục nhưng cờ nào, đội ấy vẫn chỉnh tề. Càng hành quân, lực lượng càng mạnh. Quang trung Nguyễn huệ đã làm thế nào để tạo nên kì tích ấy cho đến tận ngày nay vẫn còn là bí sử. Đêm 30 tháng chạp lên đường ra Thăng Long. Mồng 5 tết vào được Thăng Long (vượt kế hoạch 2 ngày) Nghệ thuật đánh trận voi cùng mưu trí, khiến cho kẻ thù tướng mạnh, quân đông, mưu trí có thừa mà vẫn tự trói tay nộp mạng. Trong chiến trận, Quang Trung Lẫm liệt, uy nghĩ, oài hùng đến phi thường. Ông thân chinh cầm quân, là tổng chỉ huy chiến dịch thật sư: hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sự thống lĩnh mũi quân tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc… Mọi chiến thuật tiến công đều được Quang Trung trực tiếp quyết định và dóc thúc. Lãnh đạo tài tình, tận dụng yếu tố bất ngờ. Bắt sống quân do thám ở Phú Xuyên để giữ bí mật, tạo bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, công phá lành Ngọc Hồi… Bằng biện pháp nghệ thuật kể, tả, tường thuật, tác giả đã làm nỗi bậc hình ảnh vị anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung thật oai phong, lẫm liệt, mang tính sử thi, là linh hồn của cuộc hành quân thần tốc đại phá quân Thanh. Vua Quang Trung tượng trân cho đạo lý, tài trí sức mạnh Việt Nam. Ngược lại với chiến thắng của Quang Trung Nguyễn Huệ là hình ảnh thảm bại của kể thù xam lược và bè lũ vưa quan bán nước. Bọn quân tướng nhà Thanh khi tiến vào nước ta, do tâm lí khinh thường, ngạo mạn nên không đề phòng, chỉ lo yến tiệc vui chơi. Ý chí chiến đấu lại hèn kém. Khi quân Tây Sơn đến chỉ biết tháo chạy, hèn nhát, tham sống sợ chết. Bọn vua tôi phản nước hại dân “cõng rắn cắn gà nhà“, mưu đồ lợi ích riêng đã hèn nhát, cầu cạnh, van xin, mất tư cách của một vị vua và phải chịu số phận bi đát. Kết bài: Đoạn trích đã tái hiện chân thật hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ trong chiến thắng mùa xuân Kỉ Dậu năm 1789 . Quang Trung – Nguyễn Huệ cùng đoàn quân Tây Sơn kiêu hùng bao nhiêu thì bọn cướp nước và bán nước thảm bại bấy nhiêu. Trên thực tế, tác phẩm không giữ nguyên thi pháp cổ điển của thể loại như mô tả ngoại hình nhân vật theo lối tượng trưng, ước lệ, mà có những đặc điểm được các nhà nghiên cứu đánh giá là đậm sắc thái của Việt Nam. Ngôn ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ động, mang phong cách lối nói dân gian giàu hình tượng, đôi khi có khoa trương, phóng đại hài hước, không bị gò bó theo khuôn của Hán học, vì vậy nội dung có sức hấp dẫn đặc biệt. Thành công lớn nhất của tiểu thuyết này là xây dựng được những nhân vật điển hình đa dạng, vừa khái quát vừa sâu sắc.