Qua “Chiếu dời đô” hãy cho biết vì sao Lí Công Uẩn lại chọn thành Đại La làm nơi định đô mới?

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Chiếu dời đô hay Thiên đô Chiếu là văn bản do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa Xuân năm 1010 để chuyển kinh đô nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (Ninh Bình) thành Đại La (Hà Nội) ngày nay. Với lịch sử Việt Nam, Chiếu dời đô có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình xây dựng và phát triển của dân tộc. Riêng với thủ đô Hà Nội, Chiếu dời đô còn có ý nghĩa thiêng liêng đánh dấu bước phát triển của mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến.

    Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, là chiếu lệnh, một lời hịch, tự tay vua viết, ban ra để nói rõ cho quần thần, trăm họ biết về một về một quyết sách lớn của triều đình là dời đô, và kêu gọi sự đồng lòng. Đây là một văn kiện mang ý nghĩa vô cùng to lớn, là tác phẩm bất hủ về nhiều mặt: văn chương, lịch sử, chính trị, địa lý, triết học…

    Về văn chương: Chiếu dời đô là áng văn lớn, giàu hình tượng, có trí tưởng tượng phong phú và có tính dự báo rất xa: “Huống chi thành Đại La… ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuốn, hổ ngồi; chính vị đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi.

    Về mặt triết lý: Lý Công Uẩn dựa vào để lý giải việc đời đô là “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi”. Mệnh trời là cái tất yếu, không thể cưỡng lại, đó cũng có thể là “sao chiếu mạng” trong lý số học, mà có thời người ta cho là mê tín dị đoan. Còn ý của dân – đó là chỗ dựa bền vững nhất của mọi triều đại. Cái gì dân không theo thì đừng làm. Nâng thuyền cũng là dân. Lật thuyền cũng là dân (Nguyễn Trãi). Cho nên kết thúc bài “hịch” (tức kêu gọi), Lý Công Uẩn viết rất “do dân, vì dân”, muốn mọi người cùng chung sức làm việc lớn: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?”.

    Về mặt địa lý: Lý Công Uẩn chắc chắn là người rất giỏi xem long mạch đất. Một năm trước lúc lên làm vua ông là quan nhà Tiền Lê, chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Lúc đó ông đã ấp ủ, nung nấu chuyện dời đô ra thành Đại La rồi. Nên mới lên làm vua là ông ban Chiếu dời đô ngay. Những năm làm quan dưới triều nhà Đinh và Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư ông đã thấy được đóng đô Hoa Lư chỉ với mục đích phòng thủ, cố thủ, thiển cận, tạo cho vua quan thói quan ăn chơi hưởng lạc, không có tương lai cho vương triều và thần dân trăm họ.

    Hoa Lư là vùng đất chật hẹp và bị núi bao bọc, ra vào chỉ có một đường độc đạo. Thế thủ thì tốt thật, song không có lợi cho việc xây dựng và phát triển vương triều cũng như đất nước lâu dài. Thực tế Hoa Lư là mạch đất không phải đất “đế đô” nên hai triều Đinh và Tiền Lê luôn trong nội bộ bất ổn, vương triều tồn tại không được bao lâu (Triều Đinh hai đời vua, tồn tại 13 năm (968-980), triều Tiền Lê ba đời vua, tồn tại 29 năm (981-1009)).

    Nhất định trước khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn với sự giúp đỡ của sư Vạn Hạnh, sư anh Lý Khánh Vân và tướng Đào Cam Mộc (người Thanh Hóa) đã đi thị sát Đại La nhiều lần, đã phát hiện ra mạch đất Đại La là huyệt đất “đế vương” muôn đời “Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất Thượng đô của Thượng đô muôn đời”, nên ông quyết tâm dời đô ra đó. Và quyết định đó là chính xác tuyệt đối.

    Về chính trị và kinh tế, Đại La là nơi hội tụ của bốn phương đất nước, giao thương hết sức thuận lợi và sầm uất, truyền thống văn hóa lâu đời. Sau khi dời đô, triều Lý phát triển rất hưng thịnh…