Tâm Lý Học - Chương 1 - Bài 1: Khái quát về khoa học tâm lí

  1. Tác giả: LTTK CTV
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Tóm tắt lý thuyết

    1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển Tâm lí học


    1.1 Những tư tưởng Tâm lí học thời cổ đại

    Loài người ra đời trên Trái Đất này được khoảng 10 vạn năm - con người trí khôn có một cuộc sống có lí trí, tuy buổi đầu còn rất sơ khai, mông muội.
    Trong các di chỉ của người nguyên thuỷ, người ta thấy những bằng cứ chứng tỏ đã có quan niệm về cuộc sống của “hồn”, “phách” sau cái chết của thể xác. Trong các bản văn tự đầu tiên từ thời cổ đại và các kinh ở An Độ đã có những nhận xét về tính chất của “hồn”, đã có những ý tưởng tiền khoa học về tâm lí.
    Khổng Tử (551 - 479 TCN) nói đến chữ “tâm” của con người là “nhân, trí, dũng”, về sau học trò của Khổng Tử phát triển thành “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”.
    Nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại là Socrates (469 - 399 TCN) đã tuyên bố câu châm ngôn nổi tiếng: “Hãy tự biết mình”. Đây là một định hướng có giá trị to lớn cho Tâm lí học: Con người có thể và cần phải tự hiểu biết mình, tự nhận thức, tự ý thức về cái “ta”.
    Người đầu tiên “bàn về tâm hồn” là Aristotle (384 - 322 TCN). Ông là một trong những người có quan điểm duy vật về tâm hồn con người. Aristotle cho rằng, tâm hồn gắn liền với thể xác, tâm hồn có ba loại:
    • Tâm hồn thực vật có chung ở người và động vật làm chức năng dinh dưỡng (còn gọi là “tâm hồn dinh dưỡng”).
    • Tâm hồn động vật có chung ờ người và động vật làm chức năng cảm giác, vận động (còn gọi là “tâm hồn cảm giác”).
    • Tâm hồn trí tuệ chỉ có ở người (còn gọi là “tâm hồn suy nghĩ”).
    Quan điểm của nhà triết học duy tâm cổ đại Plato (428 — 348 TCN) đối lập với quan điểm của Aristotle. Ông cho rằng, tâm hồn là cái có trước, thực tại có sau, tâm hồn do Thượng đế sinh ra. Tâm hồn trí tuệ nằm ở trong đầu, chí có ở giai cấp chủ nô; tâm hồn dũng cảm nằm ờ ngực và chỉ có ở tầng lớp qưý tộc; tâm hồn khát vọng nằm ở bụng và chi có ở tầng lớp nô lệ.
    Đối lập với quan điểm duy tâm thời cổ đại về tâm hồn là quan điểm của các nhà triết học duy tâm như: Thales (thế kí VII - VI TCN); Anaximenes (thế ki VI TCN), Heraclitus (thế kỉ VI - V TCN)... cho rằng tâm lí, tâm hồn cũng như vạn vật đều được cấu tạo từ vật chất như: nước, lửa, không khí, dất. Còn Democritus (460 - 370 TCN) cho rằng tâm hổn do nguyên tử cấu tạo thành, trong dó “nguyên tử lửa” là nhân tố tạo nên tàm lí. Thuyết Ngũ hành coi kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ tạo nên vạn vật, trong dó có cả tâm hồn.
    Các quan điểm duy vật và duy tâm luôn đấu tranh mãnh liệt xung quanh mối quan hệ vật chất và tinh thần, tâm lí và vật chất.

    1.2 Những tư tưởng Tâm lí học từ nữa đầu thế kỉ XIX trở về trước


    Trong suốt thời kì trung cổ, Tâm lí học mang tính chất thẩm mĩ - bản thể huyền bí. Sự phát triển các tri thức, các tư tưởng tiến bộ bị kìm hãm. Nghiên cứu về cuộc sống tâm hồn bị quy định bởi các nhiệm vụ của Thần học, nên mọi kết quả nghiên cứu chí nhằm xem tâm hồn người sẽ phải đưa tới xứ sở của sự hưng thịnh như thế nào.
    Thuyết Nhị nguyên: R. Descartes (1596 — 1650) dại diện cho phái “Nhị nguyên luận” cho rằng vật chất và tâm hồn là hai thực thể song song tồn tại. Descartes coi cơ thể con người phản xạ như một chiếc máy. Còn bản thể tinh thần, tâm lí của con người thì không thể biết được. Song Descartes cũng đã đặt cơ sở đầu tiên cho việc tìm ra cơ chế phản xạ trong hoạt động tâm lí.
    Sang thế kỉ XVIII, Tâm lí học bắt đầu có tên gọi. Nhà triết học Đức Wolff đã chia Nhân chủng học (Nhân học) ra thành hai thứ khoa học, một là khoa học về cơ thể, hai là Tâm lí học. Năm 1732, ống xuất bản cuốn Tâm lí học kinh nghiệm. Sau đó 2 năm (1734), cuốn Tâm lí học li trí ra đời. Vậy là “Tâm lí học” xuất hiện từ đó.
    Thế kỉ XVII - XVIII - XIX: cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật xung quanh mối quan hệ giữa tâm và vật diễn ra vô cùng ác liệt.
    • Các nhà triết học duy tâm chủ quan như Berkeley (1685 - 1753),
    Mach (1838 - 1916) cho rằng thế giới không có thực, thế giới chí là “phức hợp các cám giác chủ quan“ của con người. Còn D. Hume (1711 — 1776) coi thế giới chỉ là những “kinh nghiệm chủ quan”. Nguồn gốc của kinh nghiệm là do đâu? Hume cho rằng con người không thể biết. Vì thế, người ta vãn coi Hume thuộc vào phái Bất khả tri.
    Học thuyết duy tâm phát triển tới mức độ cao thể hiện ở “ý niệm tuyệt đối” của Hegel.
    • Thế kỉ XVII - XVIII — XIX, các nhà triết học và tâm lí học phương Tây đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên một bước cao hơn: Spinoza (1632 - 1677) coi tất cả vật chất đều có tư duy; La Mettric (1709 - 1751), một trong các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật Pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác; còn Cabanis (1757 — 1808) cho rằng não tiết ra tư tưởng, giống như gan tiết ra mật.
    L. Feuerbach (1804 - 1872) nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, đã khảng định: Tinh thần, tâm lí không thể tách rời khỏi não người, nó là sản phẩm của thứ vật chất phát triển tới mức độ cao là bộ não.
    Đến nửa đầu thế kí XIX có rất nhiều diều kiện để Tâm lí học trưởng thành, tự tách ra khỏi mối quan hệ phụ thuộc chặt chẽ vào Triết học với tư cách là một bộ phận, một chuyên ngành của Triết học.

    1.3 Tâm lí học trở thành một khoa học độc lập


    Từ đầu thế kí XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật, tạo điểu kiện cho Tâm lí học trở thành một khoa học độc lập. Trong đó phải kể tới thành tựu của các ngành khoa học có liên quan như: Thuyết tiến hoá của c. Darwin (1809 — 1882) nhà duy vật Anh, Thuyết tâm sinh lí học giác quan của Helmholtz (I82l — 1894) người Đức, Thuyết lâm vật lí học của Fechner (1801 - 1887) và Weber (1795 - 1878) cả hai đều là người Đức, Tâm lí học phát sinh của Galton (1822 - 1911) người Anh, và các công trình nghiên cứu về Tâm thần học của bác sĩ Charcot (1825 — 1893) người Pháp...
    Thành tựu của chính khoa học Tâm lí lúc bấy giờ, cùng với thành tựu của các lĩnh vực khoa học nói trên là điều kiện cần thiết giúp cho Tâm lí học đã đốn lúc trở thành khoa học độc lập. Đặc biệt, trong lịch sử Tâm lí học, một sự kiện không thê không nhắc tới là vào năm 1879, nhà tâm lí học Đức w. Wundt (1832 - 1920) đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lí học đầu tiên trên thế giới tại thành phố Leipzig. Một năm sau, nó trừ thành viện tâm lí học đầu tiên của thế giới, xuất bản các tạp chí tâm lí học. Từ vương quốc của chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức chủ quan là đối tượng của Tâm lí học và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan, tự quan sát, Wundt đã bắt đầu chuyển sang nghiên cứu tâm lí, ý thức một cách khách quan bằng quan sát, thực nghiệm, đo đạc...
    - Để góp phần tấn công vào chủ nghĩa duy tâm, đầu thế kỉ XX các dòng phái Tâm lí học khách quan ra đời, dó là: Tâm lí học hành vi, Tâm lí học Gestalt, Phân tâm học. Trong thế kỉ XX còn có những dòng phái Tâm lí học khác có vai trò nhất định trong lịch sử phát triển khoa học tâm lí hiện dại như dòng phái Tâm lí học nhân văn, Tâm lí học nhận thức. Và nhất là sau khi Ciách mạng tháng Mười năm 1917 thành công ở Nga, dòng phái Tàm lí học hoạt dộng do các nhà tâm lí học Xô viết sáng lập đã đem lại những bước ngoặt lịch sử đáng kể trong Tàm lí học.

    2. Các quan điểm cơ bản trong Tâm lí học hiện đại


    2.1 Tâm lí học hành vi

    Chủ nghĩa hành vi do nhà tâm lí học Mỹ J. Watson (1878 - 1958) sáng lập. J. Watson cho rằng Tâm lí học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể. 0 con người cũng như ở dộng vật, hành vi dược hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó. Toàn bộ hành vi, phán ứng của con người và động vật phản ánh bằng công thức:
    S - R
    (Stimulant - Reaction)
    Kích thích - Phản ứng
    Với công thức trên, J. Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong Tâm lí học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu dược một cách khách quan, lừ dó có thể diều khiển hành vi theo phương pháp “thừ — sai”. Những chủ nghĩa hành vi đã quan niệm một cách cơ học, máy móc về hành vi, đánh đồng hành vi của con người với hành vi của con vật, hành vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích thích, giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản ứng với nội dung tâm lí bôn trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí con người, đồng nhất tâm lí con người với tâm lí động vật, con người chỉ hành vi phản ứng trong thế giới một cách cơ học, máy móc. Đây chính là quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.
    Về sau, các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tolman, Hull, Skinner... có đưa vào công thức S - R những “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người hoặc hành vi tạo tác “operant” nhầm dáp lại những kích thích có lợi cho cơ thê. Về cơ bản, chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Watson.

    2.2 Tâm lí học Gestalt (còn gọi là Tâm lí học cấu trúc)


    Dòng phái này ra đời ở Đức, gắn liền với tên tuổi các nhà tâm lí học: Wertheimer (1880 - 1943), Köhler (1887 - 1967), Koffka (1886 -1941). Họ đi sâu nghiên cứu các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật “bừng sáng” của tư duy. Trcn cơ sớ thực nghiệm, các nhà tâm lí học Gestalt khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lí của con người do các cấu trúc tiền định của não quyết định. Các nhà tâm lí học Gestalt ít chú ý đến vai trò của vốn kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử.

    2.3 Phân tâm học


    Thuyết Phân tâm do s. Freud (1859 - 1939), bác sĩ người Áo xây dựng nên. Luận điểm cơ bản của Freud là tách con người thành ba khối: cái ấy (cái vỏ thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ẩy bao gồm các bán năng vô thức: ăn uống, tình dục, tự vệ, trong đó bản năng tình dục giữ vai trò trung tàm quyết định toàn bộ dời sống tâm lí và hành vi của con người, cái ấy tồn tại theo nguyên tắc thoả mãn và đòi hỏi. Cái tôi là con người thường ngày, con người có ý thức, tồn tại theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức theo Freud là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài của nhân lõi bên trong là “cái ấy”. Cái siêu tôi là cái siêu phàm, “cái tôi lí tưởng” không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép. Như vậy, Phân tâm học đã đé cao quá đáng cái bản năng vô thức, dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội, lịch sử của tâm lí con người, đồng nhất tâm lí của con người với tâm lí loài vật. Học thuyết Freud là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan diểm sinh vật hoá tâm lí con người.
    Tóm lại, ba dòng phái Tâm lí học nói trên ra đời ở cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX góp phần tấn công vào dòng phái chủ quan trong Tâm lí học, đưa Tâm lí học đi theo hướng khách quan. Nhưng do những giới hạn lịch sử, ừ họ có những hạn chế nhất định như thể hiện xu thế cơ học hoá, sinh vật hoá tâm lí con người, bỏ qua bản chất xã hội lịch sử và tính chủ thể của đời sống tâm lí con người.

    2.4 Tâm lí học nhân vân


    Dòng phái Tâm lí học nhàn văn do c. Rogers (1902 - 1987) và H. Maslovv sáng lập. Các nhà tâm lí học nhân văn quan niệm rằng bản chất con người vốn tốt đẹp, con người có lòng vị tha và có tiềm năng kì diệu.
    Maslovv đã nêu lên 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ thấp đến cao:
    • Nhu cầu sinh lí cơ bản.
    • Nhu cầu an toàn.
    • Nhu cầu về quan hệ xã hội.
    • Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ...
    • Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt.
    C. Rosers cho rằng, con người cần phải đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe và chờ đợi, cảm thông với nhau. Tâm lí học cần phải giúp cho con người tìm được bản ngã đích thực của mình để có thể sống một cách thoải mái, cởi mở, hồn nhiên và sáng tạo. Tuy nhiên, Tâm lí học nhân văn đề cao những điều cám nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, vì thế thiếu vắng con ngưừi trong hoạt động thực tiễn.

    2.5 Tâm lí học nhận thức


    Hai đại biểu nổi tiếng của Tâm lí học nhạn thức là J. Piaget (Thuỵ Sĩ) và Brunner (trước ờ Mỹ, sau đó ở Anh). Tâm lí học nhận thức coi hoạt động nhận thức là đối tượng nghiên cứu của mình. Đặc điểm tiến bộ nổi bạt của dòng phái Tâm lí học này là nghiên cứu tâm lí con người, nhận thức của con người trong mối quan hệ với mỏi trường, với cơ thể và với não bộ. Vì thế, họ đã phát hiện ra nhiều sự kiện khoa học có giá trị trong các vấn đề tri giác, trí nhớ, tư duy, ngôn ngữ... làm cho các lĩnh vực nghiên cứu nói trên đạt tới một trình độ mới. Đồng thời, họ cũng đã xây dựng dược nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể đóng góp cho khoa học tâm lí ớ những năm 50 - 60 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, dòng phái này cũng có những hạn chế như: Họ coi nhận thức của con người như là sự nỗ krc của ý chí, để dưa đến sự thay đổi vốn kinh nghiệm, vốn tri thức của chủ thể, nhằm thích nghi, cân bằng với thế giới, chưa thấy hết ý nghĩa tích cực, ý nghĩa thực tiễn của hoạt dộng nhận thức.
    Tất cả những dòng phái Tâm lí học nói trên đều có những đóng góp nhất định cho sự hình thành và phát triển của khoa học tâm lí. Song do những hạn chế lịch sử, họ thiếu một cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng, nên họ vẫn chưa có quan điểm đầy đủ và đúng đắn về con người, về hoạt dộng tâm lí của con người... Sự ra đời của Tâm lí học mácxit hay còn gọi là Tâm lí học hoạt động dã góp phần dáng kê vào việc khắc phục hạn chế nói trcn và tiếp tục đưa Tâm lí học lên đỉnh cao của sự phát triển.

    2.6 Tâm lí học hoạt động


    Dòng phái Tâm lí học này do các nhà tâm lí học Xô viết sáng lập như: L.s. Vygotsky (1896 - 1934), S.L. Rubinshtejn (1902 - I960), A.N. Leonchiev (1903 - 1979), A.R. Luria (1902 - 1977)... Đây là dòng phái Tâm lí học lấy triết học Mác - Lenin làm cơ sở lí luận và phương pháp luận, xây dựng nền tâm lí học lịch sử người: coi tâm lí học là sự phản ánh thê giới khách quan vào não, thông qua hoạt dộng.
    Tâm lí người mang tính chủ thể, có bản chất xã hội, tâm lí người được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động và trong các mối quan hệ giao lưu của con người trong xã hội. Chính vì thế, Tâm lí học mácxit dược gọi là “Tàm lí học hoạt động”.

    3. Đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lí học


    3.1 Đối tượng của Tâm lí học

    Trong tác phẩm Phép biện chứng của tự nhiên, Ph. Ảngghen (F. Engels)0' đã chỉ rõ thế giới luôn luôn vận dộng, mỗi khoa học nghiên cứu một dạng vận động của thế giới. Các khoa học phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên thuộc nhóm khoa học tự nhiên. Các khoa học phân tích các dạng vận động của xã hội thuộc nhóm các khoa học xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận dộng chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động kia dược gọi là các khoa học trung gian, chẳng hạn Lí sinh học, Hoá sinh học, Tâm lí học... Trong đó, Tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện tượng tâm lí - với tư cách một hiện tượng tinh thần.
    Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng Latinh, “psyche” là “linh hồn”, “tinh thần” và “logos” là “học thuyết”, “khoa học”. Vì thế, “Tâm lí học” (Psychology) là khoa học về tâm hổn. Nói một cách khái quát nhất, tâm lí bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người. Các hiện tượns tâm lí đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống con người, trong quan hộ giữa con người với con người và con người với cả xã hội loài người.
    Như vậy, đối tượng của Tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác dộng vào não con người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt dộng tâm lí.

    3.2 Nhiệm vụ của Tâm lí học


    Nhiệm vụ cơ bản của Tâm lí học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế diễn biến và thổ hiện tâm lí, quy luật về mối quan hộ giữa các hiện tượng tâm lí, cụ thể là nghiên cứu:
    • Những yếu tố khách quan, chủ quan tạo ra tâm lí người.
    • Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí.
    • Tâm lí của con người hoạt động như thế nào?
    • Chức năng, vai trò cùa tâm lí đối với hoạt động của con người.
    Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của Tâm lí học như sau:
    • Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lí cả về mặt số lượng và chất lượng.
    • Phát hiện các quy luật hình thành phát trien tâm lí.
    • Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lí.
    Trên cơ sở các thành tựu nghicn cứu, Tâm lí học dưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí trong nhân tố con người có hiệu quả nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, Tâm lí học phải liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhiều khoa học khác.