Vũ Nương (hay Vũ Thị Thiết), quê ở Nam Xương là người con gái tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Nàng vốn con nhà nghèo khó, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú. Bởi hiểu tính chồng nên nàng hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa bao giờ để xảy ra bất hòa. Đối với mẹ chồng cũng muôn phần cung kính. Cuộc sống gia đình vô cùng hạnh phúc. Năm ấy, giặc Chiêm tung hoành, vì ít học nên Trương Sinh phải ra trận vào đợt đầu. Vũ Nương chia tay với niềm mong mỏi sớm được sum họp. Người chồng ra đi ít lâu thù nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng nàng bởi nhớ con cũng dần sinh ốm. Vũ Nương một mình vừa nuôi dạy con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng ốm. Rồi mẹ chồng qua đời, nàng hết lòng lo ma chay tế lễ như đối với mẹ cha đẻ mình. Ngày Trường Sinh trở về, con cũng vừa học nói. Chỉ vì chiếc bóng vô tình và lời nói ngây thơ của con trẻ mà Trương Sinh nghi ngờ vợ ở nhà thất tiết. Chàng mắng nhiếc nhục mạ nàng. Giải bày không được, Vũ Nương đành trầm mình dưới bến Hoàng Giang. Vũ Nương được Linh Phi cứu, cũng là lúc Trương Sinh hiểu rõ nổi oan của vợ. Nhờ Phan Lang là người cùng làng , được Linh Phi cứu giúp mang chiếc hoa vàng với lời nhắn chàng Trương hãy lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện về, xiêm y lộng lẫy, chỉ trong chốc lát rồi biến mất.
Bài tham khảo: Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong 20 truyện của tập Truyền kì mạn lục do Nguyễn Dữ sưu tầm và biên soạn. Chuyện kể về cuộc đời và số phận nghiệt ngã của nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, một người thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Trương Sinh, người cùng huyện, một con nhà hào phú, vì mến dung hạnh, nết na đã xin mẹ cưới nàng về làm vợ. Biết tính chồng hay ghen, tính tình thô lỗ, nàng luôn hành động đúng mực, hết sức giữ gìn khuôn phép, chưa lúc nào vợ chồng trở nên bất hòa. Quân giặc quấy nhiễu biên cương, trương Sinh dù là con một nhưng cũng phải đi lính. Chồng đi chưa lâu, nàng hạ sinh một bé trai và đặt tên là Đản. Ở nhà, nàng thay chồng làm hết mọi chuyện, chăm lo con nhỏ và mẹ già hết sức chu đáo, khiến làng xóm ai ai cũng cảm phục. Người mẹ vì đêm ngày mong nhớ con thân tâm suy kiệt rồi qua đời. nằng lo ma chay tế lễ như mẹ ruột của mình. Giặc tan, Trương Sinh trở về. Nghe tin mẹ mất chằng rát đau buồn. Lúc viếng mộ mẹ, bé Đản nói lời ngây thơ khiến Trương Sinh nghi rằng vợ mình ở nhà thất tiết với người khác nên có lời mắng nhiếc, sỉ nhục, đánh đập tàn tệ rồi đuổi nàng đi. Vũ Nương hết lời giải bày, làng xóm can ngăn nhưng Trương Sinh một mực không nghe. Quá phẫn uất, Vũ nương trầm mình xuống sông sâu để minh chứng mình trong sạch. Thương nàng oan khuất, Linh Phi, vợ vua thủy tề đã cứu nàng linh hồn nàng và đưa nàng về ở động rùa dưới thuỷ cung. Phan Lang vì trước có ân cứu Linh Phi nên khi chết trên biển, xác trôi vào động rùa, được Linh Phi cứu sống. Tại đây Phan Lang gặp Vũ Nương. Nàng đen lời tỏ bày nỗi oan khuất và nhờ Phan Lang về nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh sau ngày vợ mất, một đêm, bé Đản khóc quấy và chỉ lên cái bóng trên tường nói rằng cha Đản, Trương Sinh mới hiểu mọi chuyện nhưng lúc này đã quá muôn. Phan Lang trở về nói rõ sự tình, đưa cho chàng chiếc trâm cài năm xưa làm minh chứng, Trương Sinh lập tức lập đàn giải oan cho vợ trên bến sông suốt ba ngày ba đêm. Linh hồn Vũ Nương trở về, nàng nói lời từ biệt rồi từ từ biến mất.
Giá trị nội dung và nghệ thuật: Giá trị nội dung: – Tác phẩm ca ngợi và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam: thủy chung, tận tụy, hiếu thuận,…. nhưng phải gánh chịu số phận khắc nghiệt, cuối cùng nhận lấy kết cục thảm thương. – Tác phẩm phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm và cuộc đời của người phụ nữ, đẩy họ vào bước đường cùng không lối thoát. Giá trị nghệ thuật: – Cách kể chuyện lôi cuốn, sinh động, kết cấu truyện đầy kịch tính, có sức hấp dẫn người đọc. – Kết hợp những yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo, hoang đường với cách kể chuyện, xây dựng nhân vật thành công.
Bài tham khảo: Đóng vai Trương Sinh kể lại câu chuyện gia đình mình Phận đàn bà từ xa xưa đã phải chịu những bất hạnh, không đâu thoát được. Càng cực hơn khi bấy giờ thuộc chế độ phong kiến, là xã hội của những cổ tục, suy nghĩ cổ hữu – “Trọng nam khinh nữ”. Là một người chồng, người cha, tôi không thể giấu mãi chuyện này. Giờ đây bé Đản đã lớn, có đủ chín chắn để nhìn nhận vấn đề, nó cũng cần phải biết những gì đã xảy ra trong quá khứ. Vũ Nương – cái tên nghe quá đỗi thân thương. Đó là nơi mà tôi và mẹ bé Đản – Vũ Thị Thiết bén duyên tơ hồng. Nàng xinh đẹp, hiếu thảo, tư dung tốt đẹp vô cùng. Còn tôi – Trương Sinh là một đứa con trong gia đình hào phú, muốn gì được nấy nhưng lại không lo việc chữ nghĩa, suy nghĩ không bằng người. Vừa gặp Thiết, tôi đã đem lòng thương mến, dần dần muốn cưới nàng về làm vợ. Con trai thời ấy được ba mẹ cưng chiều vô cùng. Tư dung tốt đẹp như nàng, mẹ chồng nào mà chẳng thích nên vội mở lời xin mẹ trăm lạng vàng để rước nàng về, bà chấp nhận ngay. Nên duyên vợ chồng, cả hai hạnh phúc lắm. Tôi nhận thức được tôi là một người ghen tuông mù quáng vì suy nghĩ nông cạn. Ở bên tôi, chắc nàng từng đã cố gắng giữ gìn khuôn phép để gia đình ấm êm. Chung chăn gối chưa được bao lâu thì nước non gặp nạn, là người con của quê hương, làm sao tôi có thể ngó mặt làm ngơ. Trước khi đi, cả mẹ lẫn vợ đều chuẩn bị, dặn dò tôi rất đầy đủ. Rằng họ chỉ mong tôi an yên trở về, những thứ danh vọng ngoài kia là thứ không màng tới. Rời xa gia đình, tôi thật lòng không muốn nhưng vì sự nước, tôi phải lên đường. Đi được một tuần thì nghe tin vợ ở nhà hạ sinh một đứa bé trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Không biết vắng chồng, vợ tôi nơi ấy như thế nào. Nhờ Thiết và mẹ luôn gửi thư thăm hỏi, kể tình hình nơi quê nhà nên tôi phần nào đỡ lo lắng. Không lâu sau, tôi lại nhận được tin mẹ bệnh nặng. Được biết nàng chăm lo cho mẹ tôi chu đáo lắm, nàng luôn hỏi han, an ủi, động viên bà chờ ngày tôi về, nhưng tuổi già sức yếu, con người ta dù cố gắng ra sao cũng chẳng thể thay đổi lệnh trời. Mẹ tôi ra đi. Ở nơi chiến trường đầy chết chóc ấy được nửa năm thì tôi trở về. Lúc ấy, quân giặc đã đầu hàng, trả lại sự yên bình vốn có của đất nước. Bước chân đến cửa, vợ tôi chạy ra, như vỡ òa, nàng ôm lấy tôi. Nhìn xung quanh, chỉ có một mình nhưng nàng đã gánh vác việc nhà, dạy dỗ con cái, lo hậu sự cho mẹ tôi rất tốt. Nhiêu đấy đủ để biết, người phụ nữ này đã cố gắng biết chừng nào! Tôi ẵm con ra trước mộ mẹ, chết lặng vài giây. Đản cứ quấy khóc, tôi nói: – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Nó bập bẹ, ngây thơ lên tiếng đáp trả: – Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Tôi bất ngờ. Gạn hỏi con thì nó nói rằng đêm nào cũng có một người đàn ông đến chơi, Thiết đứng lên đi thì người đàn ông đó cũng đi, Thiết ngồi, người đàn ông đó cũng ngồi, tuyệt nhiên chẳng bao giờ lên tiếng hay bế Đản. Tôi nóng ran người, tỏ rõ sự bực tức, chắc chắn rằng vợ hư, không một lòng chung thủy. Về đến nhà, tôi lớn tiếng quát nạt, ra tay đánh nàng, mặc nàng van xin giải thích, mặc hàng xóm sang can ngăn. Ngày hôm đó, hẳn là ngày đầy lỗi lầm của tôi. Nàng tắm gội chay sạch rồi đi đâu không ai biết được. Tôi cũng chẳng màng ngó tới. Chỉ biết được lúc đi, Thiết mang theo một chiếc hoa vàng. Sau đó hay tin nàng trầm mình xuống sông mà chết, tuy còn giận nhưng tôi vẫn đi tìm vớt thay nàng. Tìm tìm kiếm kiếm chẳng thấy đâu cả, tôi thơ thẩn đi về. Tối hôm ấy, hai cha con ngồi trước ngọn đền dầu, bỗng Đản chỉ tay lên tường: – Cha Đản lại đến kia kìa! Nhìn bóng mình trên tường, tôi biết bản thân đã phạm phải sai lầm đáng chết. Vì tính đa nghi đa ghen, suy nghĩ không bằng người nên đã đẩy vợ đến quyết định tự vẫn. Hằng đêm, vì muốn con không chán ghét khi gặp lại cha, đồng thời để đỡ cô đơn, nàng đã đùa con rằng bóng trên tường là cha Đản – tôi. Không hiểu lòng vợ, nghi ngờ, ghen tuông lại không nghe vợ giải thích, tôi thật là một người chồng tệ bạc. Ít lâu sau, có kẻ cùng làng đến tìm tôi, tên hắn là Phan Lang. Ban đầu hắn trình bày sự việc gặp được Thiết dưới thủy tề nhưng tôi không tin. Làm sao chuyện hoang đường này có thể xảy ra? Sau thấy Phan lấy ra chiếc hoa vàng xưa kia, tôi đành tin và chấp nhận yêu cầu của hắn. Hắn chuyển lời rằng tôi hãy lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm ở bến Hoàng Giang, Thiết sẽ trở về. Đúng thật! Từ xa xa, bóng vợ tôi đứng trên chiếc kiệu hoa, lúc ẩn lúc hiện đầy mờ ảo. Tôi gọi vọng ra, nàng vẫn đứng yên giữa dòng mà trả lời: – Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. Nói xong, tôi chẳng còn thấy được nàng. Nàng ẩn vào mây khói mà biến đi mất, để lại nỗi nhớ khôn nguôi nơi trần gian. Đến tận bây giờ, khi đã già đi, tôi vẫn ray rứt mãi sự việc năm ấy. Cũng đúng! Làm sao có thể sống bình thản khi chính mình là nguyên nhân làm vợ chết, làm con mồ côi mẹ. Tôi không mong ước gì hơn, chỉ mong rằng nàng nơi ấy được an yên, hạnh phúc, không lạnh lẽo như phàm trần này. Rồi tôi, tôi sẽ chịu mọi hình phạt từ người đời, từ con trai.