Unit 3: Detective stories - Assessment task - Fire Sale - Page 74

  1. Tác giả: LTTK CTV07
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Now read the opening from a detective novel called Fire Sale by Sara Paretsky, which follows a private investigator making enquiries, and complete the activities that follow.
    naʊ rid ði ˈoʊpənɪŋ frʌm ə dɪˈtɛktɪv ˈnɑvəl kɔld ˈfaɪər seɪl baɪ ˈsɛrə Paretsky, wɪʧ ˈfɑloʊz ə ˈpraɪvət ɪnˈvɛstəˌgeɪtər ˈmeɪkɪŋ enquiries, ænd kəmˈplit ði ækˈtɪvətiz ðæt ˈfɑloʊ.
    Bây giờ hãy đọc phần mở đầu từ một cuốn tiểu thuyết trinh thám có tên Fire Sale của Sara Paretsky, theo chân một điều tra viên tư nhân đưa ra các yêu cầu và hoàn thành các hoạt động tiếp theo.
    I was halfway down the embankment when I saw the red-orange flash. I dropped to the ground and covered my head with my arms. And felt a pain in my shoulder so intense I couldn’t even cry out.
    aɪ wʌz ˈhæˈfweɪ daʊn ði ɛmˈbæŋkmənt wɛn aɪ sɔ ðə rɛd-ˈɔrənʤ flæʃ. aɪ drɑpt tu ðə graʊnd ænd ˈkʌvərd maɪ hɛd wɪð maɪ ɑrmz. ænd fɛlt ə peɪn ɪn maɪ ˈʃoʊldər soʊ ɪnˈtɛns aɪ ˈkʊdənt ˈivɪn kraɪ aʊt.
    Tôi đang đi được nửa đường nền đắp thì nhìn thấy ánh đèn flash màu đỏ cam. Tôi ngã xuống đất và lấy tay che đầu. Và tôi cảm thấy một cơn đau ở vai dữ dội đến mức tôi thậm chí không thể kêu lên được.

    Lying facedown in bracken and trash, I breathed in shallow panting breaths, a dog, eyes glazed, until the pain receded enough that I could move. I edged away from the flames on my hands and knees, then drew myself up on my knees and sat very still. I willed my breaths to come slow and deep, pushing the pain far enough away to manage it. Finally, I gingerly put a hand to my left shoulder. A stick. Metal or glass, some piece of the window that had shot out like an arrow from a crossbow. I tugged on the stick, but that sent such a river of agony flowing through me that I started to black out. I curled over, cradling my head on my knees.
    ˈlaɪɪŋ ˈfeɪsˈdaʊn ɪn ˈbrækən ænd træʃ, aɪ briðd ɪn ˈʃæloʊ ˈpæntɪŋ brɛθs, ə dɔg, aɪz gleɪzd, ənˈtɪl ðə peɪn rəˈsidəd ɪˈnʌf ðæt aɪ kʊd muv. aɪ ɛʤd əˈweɪ frʌm ðə fleɪmz ɑn maɪ hændz ænd niz, ðɛn dru ˌmaɪˈsɛlf ʌp ɑn maɪ niz ænd sæt ˈvɛri stɪl. aɪ wɪld maɪ brɛθs tu kʌm sloʊ ænd dip, ˈpʊʃɪŋ ðə peɪn fɑr ɪˈnʌf əˈweɪ tu ˈmænəʤ ɪt. ˈfaɪnəli, aɪ ˈʤɪnʤərli pʊt ə hænd tu maɪ leɪ ˈʃoʊldər. ə stɪk. ˈmɛtəl ɔr glæs, sʌm pis ʌv ðə ˈwɪndoʊ ðæt hæd ʃɑt aʊt laɪk ən ˈæroʊ frʌm ə ˈkrɔsˌboʊ. aɪ tʌgd ɑn ðə stɪk, bʌt ðæt sɛnt sʌʧ ə ˈrɪvər ʌv ˈægəni ˈfloʊɪŋ θru mi ðæt aɪ ˈstɑrtəd tu blæk aʊt. aɪ kɜrld ˈoʊvər, ˈkreɪdəlɪŋ maɪ hɛd ɑn maɪ niz.
    Nằm sấp mặt trong đống đồ đạc và thùng rác, tôi thở những hơi thở gấp, hổn hển, một con chó, mắt đờ đẫn, cho đến khi cơn đau giảm đi đủ để tôi có thể cử động. Tôi cố gắng bỏ đi sự đau đơn ở tay và đầu gối, rồi khuỵu gối lên và ngồi yên. Tôi cố gắng thở chậm và sâu, kìm nén cơn đau đủ để kiểm soát nó. Cuối cùng, tôi rón rén đặt một tay lên vai trái của mình. Một cái que. Kim loại hoặc thủy tinh, một số mảnh của cửa sổ đã bắn ra như một mũi tên từ nỏ. Tôi kéo mạnh cái que, nhưng điều đó khiến một nỗi đau đớn chạy trong tôi đến nỗi tôi bắt đầu sạm lại. Tôi cuộn người lại, gối đầu lên đầu gối.

    When the wave subsided, I looked across at the factory. The back window that had blown apart was awash with fire, blue-red now, a mass so thick I couldn’t make out flames, just a blur of hot colour. Bolts of fabric were stored there, fuelling the blaze.
    wɛn ðə weɪv səbˈsaɪdɪd, aɪ lʊkt əˈkrɔs æt ðə ˈfæktəri. ðə bæk ˈwɪndoʊ tha hæd bloʊn əˈpɑrt wʌz əˈwɑʃ wɪð ˈfaɪər, blu-rɛd naʊ, ə mæs soʊ θɪk aɪ ˈkʊdənt meɪk aʊt fleɪmz, ʤʌst ə blɜr ʌv hɑt colour. boʊlts ʌv ˈfæbrɪk wɜr stɔrd ðɛr, ˈfjulɪŋ ðə bleɪz.
    Khi cơn đau giảm bớt, tôi nhìn sang nhà máy. Cửa sổ phía sau đã bị nổ tung bởi lửa tràn ngập, giờ có màu xanh-đỏ, một khối dày đặc đến mức tôi không thể nhìn ra đâu là lửa, chỉ là một vệt màu nóng. Những sợi vải được cất giữ ở đó, tiếp sức cho ngọn lửa.

    And Frank Zamar. I remembered him with a sudden appalled jolt. Where had he been when that fireball blew up? I pushed myself to my feet as best I could and stumbled forward.
    ænd fræŋk Zamar. aɪ rɪˈmɛmbərd hɪm wɪð ə ˈsʌdən əˈpɔld ʤoʊlt. wɛr hæd hi bɪn wɛn ðæt ˈfaɪərˌbɔl blu ʌp? aɪ pʊʃt ˌmaɪˈsɛlf tu maɪ fit æz bɛst aɪ kʊd ænd ˈstʌmbəld ˈfɔrwərd.
    Và Frank Zamar. Tôi chợt nhớ đến anh ta với một cảm giác kinh hoàng. Anh ta đã ở đâu khi quả cầu lửa đó nổ tung? Tôi cố gắng đứng vững nhất có thể và loạng choạng về phía trước.

    Weeping with pain, I pulled out my picklocks and tried to scrabble my way into the lock. It wasn’t until my third futile attempt that I remembered my cell phone. I fumbled it out of my pocket and called 911.
    ˈwipɪŋ wɪð peɪn, aɪ pʊld aʊt maɪ picklocks ænd traɪd tu ˈskræbəl maɪ weɪ ˈɪntu ðə lɑk. ɪt ˈwɑzənt ənˈtɪl maɪ θɜrd ˈfjutəl əˈtɛmpt ðæt aɪ rɪˈmɛmbərd maɪ sɛl foʊn. aɪ ˈfʌmbəld ɪt aʊt ʌv maɪ ˈpɑkət ænd kɔld 911.
    Khóc vì đau đớn, tôi rút chìa khóa ra và cố gắng mở ổ khóa. Cho đến lần thử thứ ba vô ích, tôi mới nhớ ra điện thoại di động của mình. Tôi lấy nó ra khỏi túi và gọi 911.

    While I waited on the fire trucks, I kept trying the lock. The stabbing in my left shoulder made it hard for me to manoeuvre the thin wards. I tried to brace them with my left hand, but my whole left side was shaking; I couldn’t hold the picklocks steady.
    waɪl aɪ ˈweɪtəd ɑn ðə ˈfaɪər trʌks, aɪ kɛpt ˈtraɪɪŋ ðə lɑk. ðə ˈstæbɪŋ ɪn maɪ lɛft ˈʃoʊldər meɪd ɪt hɑrd fɔr mi tu manoeuvre ðə θɪn wɔrdz. aɪ traɪd tu breɪs ðɛm wɪð maɪ lɛft hænd, bʌt maɪ hoʊl lɛft saɪd wʌz ˈʃeɪkɪŋ; aɪ ˈkʊdənt hoʊld ðə picklocks ˈstɛdi.
    Trong khi chờ xe cứu hỏa, tôi tiếp tục thử khóa. Vết đâm ở vai trái khiến tôi khó cử động các khớp tay. Tôi cố gắng nẹp chúng bằng tay trái, nhưng toàn bộ phần bên trái của tôi đang run rẩy; Tôi không thể giữ ổn định ổ khóa.

    I hadn’t expected the fire - I hadn’t expected anything when I came here. It was only some pricking of unease - dis-ease - that sent me back to Fly the Flag on my way home. I’d actually made the turn onto Route 41 when I decided to check on the factory. I’d made a U-turn onto Escanaba and zigzagged across the broken streets to South Chicago Avenue. It was six o’clock then, already dark, but I could see a handful of cars in Fly the Flag’s yard when I drove by. There weren’t any pedestrians out, not that there are ever many down here; only a few cars straggled past, beaters, people leaving the few standing factories to head for bars or even home.
    aɪ ˈhædənt ɪkˈspɛktəd ðə ˈfaɪər - aɪ ˈhædənt ɪkˈspɛktəd ˈɛniˌθɪŋ wɛn aɪ keɪm hir. ɪt wʌz ˈoʊnli sʌm ˈprɪkɪŋ ʌv əˈniz - dɪs-iz - ðæt sɛnt mi bæk tu flaɪ ðə flæg ɑn maɪ weɪ hoʊm. aɪd ˈækʧuəli meɪd ðə tɜrn ˈɑntu rut 41 wɛn aɪ ˌdɪˈsaɪdɪd tu ʧɛk ɑn ðə ˈfæktəri. aɪd meɪd ə ju-tɜrn ˈɑntu ˌɛskəˈnɑbə ænd ˈzɪgzægd əˈkrɔs ðə ˈbroʊkən strits tu saʊθ ʃəˈkɑˌgoʊ ˈævəˌnu. ɪt wʌz sɪks əˈklɑk ðɛn, ɔlˈrɛdi dɑrk, bʌt aɪ kʊd si ə ˈhændˌfʊl ʌv kɑrz ɪn flaɪ ðə flægz jɑrd wɛn aɪ droʊv baɪ. ðɛr ˈwɜrənt ˈɛni pəˈdɛstriənz aʊt, nɑt ðæt ðɛr ɑr ˈɛvər ˈmɛni daʊn hir; ˈoʊnli ə fju kɑrz ˈstrægəld pæst, ˈbitərz, ˈpipəl ˈlivɪŋ ðə fju ˈstændɪŋ ˈfæktəriz tu hɛd fɔr bɑrz ɔr ˈivɪn hoʊm.
    Tôi đã không mong chờ ngọn lửa - tôi đã không mong đợi bất cứ điều gì khi tôi đến đây. Chỉ có một chút cảm giác khó chịu - không thoải mái - đã khiến tôi quay trở lại Fly the Flag khi tôi trên đường về nhà. Tôi thực sự đã rẽ vào Đường số 41 khi tôi quyết định kiểm tra nhà máy. Tôi đã quay đầu xe lên Escanaba và đi ngoằn ngoèo qua những con phố ngắn tới Đại lộ Nam Chicago. Lúc đó là sáu giờ đồng hồ, trời đã tối, nhưng tôi có thể nhìn thấy một số ít ô tô trong sân của Fly the Flag khi tôi lái xe qua. Không có bất kỳ người đi bộ nào ở ngoài, không phải là có nhiều người ở dưới đây; chỉ có một vài chiếc ô tô chạy qua, những kẻ đánh đập, những người rời khỏi nhà máy đang hoạt động để đến quán bar hoặc thậm chí về nhà.

    I left my Mustang on one of the side streets, hoping it wouldn’t attract any rovin punk’s attention. I tucked my cell phone and wallet into my coat pockets, took my picklocks from the glove compartment, and locked my bag in the trunk.
    aɪ lɛft maɪ ˈmʌˌstæŋ ɑn wʌn ʌv ðə saɪd strits, ˈhoʊpɪŋ ɪt ˈwʊdənt əˈtrækt ˈɛni rovin pʌŋks əˈtɛnʃən. aɪ tʌkt maɪ sɛl foʊn ænd ˈwɔlət ˈɪntu maɪ koʊt ˈpɑkəts, tʊk maɪ picklocks frʌm ðə glʌv kəmˈpɑrtmənt, ænd lɑkt maɪ bæg ɪn ðə trʌŋk.
    Tôi đã để chiếc Mustang của mình trên một trong những con phố phụ, hy vọng nó sẽ không thu hút bất kỳ sự chú ý nào của những người đam mê phượt. Tôi nhét điện thoại di động và ví vào túi áo khoác, lấy chìa khóa từ ngăn đựng găng tay và khóa cái túi của mình trong cốp xe.

    Under cover of the cold November night, I scrambled up the embankment behind the plant, the steep hill that lifts the toll road over the top of the old neighbourhood. The roar of traffic on the Skyway above me blocked any sounds I made - including my own squawk when I caught my foot in a discarded tyre and tumbled hard to the ground.
    ˈʌndər ˈkʌvər ʌv ðə koʊld noʊˈvɛmbər naɪt, aɪ ˈskræmbəld ʌp ði ɛmˈbæŋkmənt bɪˈhaɪnd ðə plænt, ðə stip hɪl ðæt lɪfts ðə toʊl roʊd ˈoʊvər ðə tɑp ʌv ði oʊld neighbourhood. ðə rɔr ʌv ˈtræfɪk ɑn ðə ˈskaɪˌweɪ əˈbʌv mi blɑkt ˈɛni saʊndz aɪ meɪd - ɪnˈkludɪŋ maɪ oʊn skwɔk wɛn aɪ kɑt maɪ fʊt ɪn ə dɪˈskɑrdɪd taɪr ænd ˈtʌmbəld hɑrd tu ðə graʊnd.
    Dưới sự đêm tháng mười một lạnh giá, tôi leo lên con đường đắp phía sau nhà máy, ngọn đồi dốc dẫn qua đường thu phí trên đầu khu phố cũ. Tiếng xe cộ ầm ầm trên Skyway phía trên tôi đã chặn mọi âm thanh tôi phát ra - kể cả tiếng kêu thất thanh của chính tôi khi tôi vướng chân vào một chiếc lốp xe đã bỏ đi và ngã nhào mạnh xuống đất.

    From my perch under the expressway I could see the back entrance and the side yard, but not the front of the plant. When the shift ended at seven, I could just make out the shapes of people plodding to the bus stop. A few cars bumped behind them down the potholed drive to the road.
    frʌm maɪ pɜrʧ ˈʌndər ði ɪkˈsprɛˌsweɪ aɪ kʊd si ðə bæk ˈɛntrəns ænd ðə saɪd jɑrd, bʌt nɑt ðə frʌnt ʌv ðə plænt. wɛn ðə ʃɪft ˈɛndəd æt ˈsɛvən, aɪ kʊd ʤʌst meɪk aʊt ðə ʃeɪps ʌv ˈpipəl ˈplɑdɪŋ tu ðə bʌs stɑp. ə fju kɑrz bʌmpt bɪˈhaɪnd ðɛm daʊn ðə ˈpɑtˌhoʊld draɪv tu ðə roʊd.
    Từ vị trí của tôi dưới đường cao tốc, tôi có thể nhìn thấy lối vào phía sau và sân bên, nhưng không phải phía trước của nhà máy. Khi ca làm việc kết thúc lúc bảy giờ, tôi chỉ có thể nhìn thấy hình dạng của những người đang đổ xô đến bến xe buýt. Một vài chiếc ô tô va chạm phía sau họ lao xuống ổ gà.

    Lights were still on at the north end of the plant. One of the basement windows facing me also showed a pale fluorescent glow. If Frank Zamar were still on the premises, he could be doing something - anything - from checking inventory to planting dead rats in the vents. I wondered if I could find a crate in the rubble that would get me high enough to see into the back. I was halfway down the hillside, searching through the debris, when the window went briefly dark, then burst into fiery life.
    laɪts wɜr stɪl ɑn æt ðə nɔrθ ɛnd ʌv ðə plænt. wʌn ʌv ðə ˈbeɪsmənt ˈwɪndoʊz ˈfeɪsɪŋ mi ˈɔlsoʊ ʃoʊd ə peɪl ˌflʊˈrɛsənt gloʊ. ɪf fræŋk Zamar wɜr stɪl ɑn ðə ˈprɛməsəz, hi kʊd bi ˈduɪŋ ˈsʌmθɪŋ - ˈɛniˌθɪŋ - frʌm ˈʧɛkɪŋ ˌɪnvənˈtɔri tu ˈplæntɪŋ dɛd ræts ɪn ðə vɛnts. aɪ ˈwʌndərd ɪf aɪ kʊd faɪnd ə kreɪt ɪn ðə ˈrʌbəl ðæt wʊd gɛt mi haɪ ɪˈnʌf tu si ˈɪntu ðə bæk. aɪ wʌz ˈhæˈfweɪ daʊn ðə ˈhɪlˌsaɪd, ˈsɜrʧɪŋ θru ðə dəˈbri, wɛn ðə ˈwɪndoʊ wɛnt ˈbrifli dɑrk, ðɛn bɜrst ˈɪntu ˈfaɪəri laɪf.
    Đèn vẫn sáng ở đầu phía bắc của nhà máy. Một trong những cửa sổ tầng hầm đối diện với tôi cũng phát ra ánh sáng huỳnh quang nhạt. Nếu Frank Zamar vẫn ở trong đó, anh ta có thể đang làm gì đó - bất cứ điều gì - từ việc kiểm tra hàng tồn kho cho đến dọn dẹp những con chuột chết trong lỗ thông hơi. Tôi tự hỏi liệu tôi có thể tìm thấy một cái thùng trong đống đổ nát giúp tôi đủ cao để nhìn vào phía sau hay không. Tôi đang đi xuống lưng chừng sườn đồi, tìm kiếm qua những mảnh vỡ, khi cửa sổ tối sầm lại, rồi bùng lên rực lửa.

    ✪ ✪ ✪ ✪ ✪


    Link tải tài liệu:

    LINK TẢI TÀI LIỆU