Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ - Bài làm 1 Bài làm: Khi đã nghỉ hưu ở quê nhà, Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách sống của ông. Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt lên thế tục bình thường! Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng nhà Nho: Phận sự của kẻ sĩ là phải coi việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình. Nhà thơ tự xưng mình là ông - Ông Hi Văn - lần lượt làm các việc: thi đỗ thủ khoa, khi làm Tham tán Quân vụ Bộ hình, khi làm Tổng Đốc An Hải, lúc làm Đại Tướng Bình Tây, lúc làm Phủ doãn Thừa Thiên, nhưng ông không ở lâu chức vụ nào vì luôn luôn bị giáng chức. Sự nghiệp như thế thật không hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai. Mặc dầu trên đường công danh có những lúc thăng trầm, nhưng cuối cùng ông cũng được ở phẩm tước khá cao dù cái xã hội ấy, ông gọi là cái “lồng”. Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820-1848, ông đã tự chứng minh cái tài song toàn về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không che giấu khi tự thuật về mình. Một tay ngất ngưởng trên hoan lộ: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng! Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão về hưu. Quãng đời sau cùng của đời Nguyễn Công Trứ là quãng đời không màng danh lợi, hoàn toàn hưởng nhàn theo sở thích cá nhân. Với một tâm hồn tự do và một cuộc sống độc lập, ông đã tha hồ ngất ngưởng cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa tiêu dao đây đó khi chùa, khi núi, lại đèo theo đủng đỉnh một đôi dì. Cách hưởng nhàn hành lạc của ông ở đây thật đến quá quắt, mà có lẽ khôi hài lập dị của một trang nam tử có một thị hiếu riêng, đến nỗi: Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng! Lối hưởng lạc này có một sinh khí và một tính chất riêng, đó là lối hưởng lạc nhập tục theo chiều phóng khoáng cá nhân, không giống một ai, không Tiên không Phật cũng không tục, nhưng vần trọn nghĩa vua tôi: Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Hưởng nhà hành lạc chỉ là thời kì sau cùng của ông khi làm xong phận sự. Ông muốn mọi người hiểu rằng cuộc đời là trung nghĩa. Biết bao lần lên bổng xuống trầm trên hoan lộ, vì ganh ghét, vì vu cáo, thế mà vẫn giữ vững đức trung quân, ái quốc không hề có một ý tưởng bất mãn. Bởi vậy khi về hưu vui thú tuổi già, ông sống với một cõi lòng yên vui bình thán, trên không lỗi với vua, dưới không mất lòng dân chúng. Cho nên khi Tiền Hải, Kim Sơn, lúc chống gậy đến chốn triều đình nghị quốc quân đại sự. Năm Tự Đức thứ 12 ông nghe tin liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công cửa bể Đà Nẵng, không quản ngại thân già, ông chống gậy đến chốn triều đình dâng sớ kêu vua xin Cầm quân chống giặc. Nhưng vua không cho, vì thây ông đã quá già nua tuổi tác. Tự xét hiểu mình như thế, nên ông kiêu hãnh ghi phận về mình: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông. Phải chăng đó là lối sống mang cái “chí kh픓ngất ngưởng”. Chẳng những ông không hề sợ ai chê cười mà còn đầy lòng tự hào về cái “đạo sống ngất ngưởng” đó. Tóm tắt lại có bốn cái “ngất ngưởng” làm nổi bật trong đời ông. Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng! Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng! Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng! Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ - Bài làm 2 Bài làm: Nếu được phép hiểu con người một cách giản đơn thì nhìn vào cụ Uy Viễn tướng công ta sẽ thấy rõ hai nét: Thấm nhuần đến chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu Nho gia và ý thức rất rõ về tài đức của mình, cố đem hết tài đức ấy cống hiến để làm nên sự nghiệp và danh tiếng để đời. Chí hướng và nhiệt huyết ấy ít ai bì kịp. Nguyễn Công Trứ – ông quan kinh bang tế thế lại có một tâm hồn nghệ sĩ, cống hiến thì hết mình nhưng việc xong, công thành, lại tự thưởng cho mình được vui chơi – vui chơi thanh nhã: Nợ tang bồng một khi đã trắng thì vỗ tay reo và thơ túi rượu bầu, hoặc hẹn với những ông cao niên tiên ẩn sĩ nào đó ở tận chốn thâm sơn cùng cốc và thả hồn theo nào địch nào đàn... Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là một bài tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính cách của Uy Viễn ướng công Nguyễn Công Trứ. Lời lẽ gọn mà vẫn đủ. Điệu thơ gửi vào thể ca trù nhiều tự do, ít khuôn phép, là thơ mà cũng là ca, là nhạc. Không rõ tựa đề bài thơ này tự cụ đặt hay người sưu tập đưa vào, nhưng tinh thần chung vẫn là kẻ nói lên sự ngất ngưởng. Không chỉ ở đầu đề mà toàn bài còn có thêm bốn chữ nữa, một sự cố ý trùng lặp thành điệp khúc, đúng vào chỗ tóm tắt và đúc kết một ý bày lên trên hay ẩn giấu ở dưới. Phong thái ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ nhỏ nhưng nó bộc phát mạnh mẽ và không giấu giếm hhất là sau thời điểm Đô môn giải tổ chi niên (được trả ấn từ quan, vua cho về nghỉ). Bởi dù sao trong một thái độ ngất ngưởng như thế không bao giờ được phép lọt vào mắt vào tai các vua chuyên chế của triều Nguyễn. Cho nên mở bài vẫn phải phô ra cái nét thứ nhất (như bên trên đã giải bày): Vũ trụ nội mạc phi phận sự, tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi cũng khiêm tốn, kín mà hở nói tiếp ngay: Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với bộ đội trời đạp đất của ông. Nhà thơ vừa mới tự đề cao vai trò của mình trong vũ trụ ở câu thứ nhất thì lập tức tự chê mình đã đem cái tài ba ấy nhốt vào lồng ở câu thứ hai nhưng dù sao vẫn nổi hẳn lên sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới đôi cái mốc của đời mình, dù mỗi sự kiện chỉ nhắc đến bằng vài chữ, như bất cần, không có gì quan trọng. Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Giọng thơ kể toàn chuyện lớn lao hiển hách mà nghe như nói chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi hương), làm Tham tán quân sự...chức vị ấy nói sơ qua cũng được. Nhưng làm đến Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to trong tỉnh hay lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc khi Tổng đốc Đông và bình Tây, cờ đại tướng thì thật sự Nguyễn Công Trứ không coi những chức tước ấy đều là vẻ vang lớn nhất đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự trong vũ trụ, đến tay mình thì làm, cái cốt yếu đã làm hết lòng hết sức. Chẳng phải cụ đã từng nói: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục đó sao?. Cho nên, câu tổng kết: Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng khẳng định, đối với công danh, dù Tổng đốc, dù đại tướng cụ coi cũng nhẹ tênh. Đó là một loại ngất ngưởng. Tiếp theo là một hành ngất ngưởng hơi bất thường: người giàu sang thì cưỡi ngựa, còn cụ lại cưỡi bò và cho bò đeo đạc ngựa: Người đời bảo cụ khác người, có kẻ cho là cụ đặt mình lên trên dư luận. Xét ra có thể còn xa hơn thế, cụ cho bò đeo nhạc ngựa cũng là một cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ran gay sau ngày cụ về nghỉ việc quan. Vừa nêu rõ năm tháng mình thôi đeo ấn vua ban, đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn) thì lại cho ngay bò mình cưỡi đeo đạc ngựa để cho nó cùng ngất ngưởng như mình? Ai suy diễn ra điều này chắc không khỏi cho hành vi của cụ là xấc xược. Đó là hai thứ ngất ngưởng. Ba là ngất ngưởng cả với Bụt: Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Cười bò lên thăm chùa ở núi Nài mây phủ trắng phau, cụ cười mình là: Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi, kỳ thực đó là cái dạng thôi. Bởi theo hầu cụ có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đôi dì là các cô ả đầu. Không những chẳng từ bi chút nào mà còn bất kính là đằng khác. Tuy vậy nhưng vẫn rất tự nhiên. Và cụ khiến But không những chẳng chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng với ông quan thượng già. Đến chùa, cụ đâu có lễ Phật mà bày tiệc ca hát, một tiệc hát ả đào có cả đàn kịch, trống phách hẳn hoi. Nhà chùa chắc cũng vì nể uy cụ mà làm lơ. Cụ được tất cả tục luỵ mà lâng lâng bay bổng trên chín tấng mây, phơi phới luồng ấm mát của gió xuân. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của cụ. Bấy giờ thì mọi sự đời, cái được, cái mất, miệng khen, miệng chê...tất cả đều coi như không có. Hồn cụ lâng lâng ở cõi mây trong lành, cao khiết, lời thơ vút lên hào hứng: Được mất/ dương dương người thái thượng: Khen chê/ phơi phới ngọn đông phong. Con người có bay bổng trên tầng cao, trong say sưa âm nhạc của điệu ca, tiếng trống. Khi ca/ khi tửu/ khi cắc, khi tùng. Dù cuộc vui bày trong của Phật có các cô tiên tham dự mà mình vẫn trong sạch, thanh cao. Không phật, không/ Tiên, không vướng tục: Đây là đoạn thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Hai câu trước trải dài, thanh thoát cao siêu như tấm lòng không còn vướng chút bụi trần trong nhịp điệu thênh thang thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn lên rối rít để chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc, đục, mạnh, chấm dứt câu thơ cũng là nện mạnh xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khằng định cái tài tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình. Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ tâm tính của Uy Viễn tướng công, giúp ta hiểu được phần nào cái ngất ngưởng và Bài ca ngất ngưởng này của cụ. Kết thúc bài thơ, Nguyễn Công Trứ cũng phải trở lại cái điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung với triều Nguyễn, mặc dù câu đó chĩ đặt giữa một câu tự đánh giá cao và một câu như muốn thách thức với cả triều đình: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Nội dung ngất ngưởng bất chấp dư luận, bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm hiệu hoàn toàn thích hợp, câu ngắn, câu dài tuỳ ý, vẫn liền từng cặp xen lẫn đều đặn bằng trắc: niêm luật tự do, đối không bắt buộc, âm điệu quyết định ở trạng thái tâm hồn nhà thơ: bi thương, hùng tráng, cười cợt... Giọng điệu bài thơ amng nét độc đáo của tác giả: tự hào gần như tự phụ, thậm chí đến ồn ào. Hai nét lớn trong tính cách cụ không hề che giấu, công tích lớn mà kể coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao tột bậc