Đề bài: Phân tích bài thơ Lưu Biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu. BÀI LÀM: Phan Bội Châu (1867 – 1940), ôi chiếc tên đẹp 1 thời. “Chúng ta có thể kể rằng trong lịch sử phóng thích dân tộc của quần chúng. # Việt Nam, trước chủ toạ Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là 1 nhân vật vĩ đại” (Tôn quang quẻ Phiệt). Phan Bội Châu là vong hồn của các phong trào di chuyển giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. tiếng tăm ông gắn liền với các công ty yêu nước như Hội Duy tân, phong trào Đông du, Việt Nam quang quẻ phục hội,… tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền có hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan ái tình nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu). Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy tân, 1 doanh nghiệp yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Trước lúc xuất hành Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện có bao hoài bão tung hoành, ông để lại đồng chí bài thơ “Xuất dương lưu biệt “. sở hữu thể kể bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp phóng thích dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú đường luật, là khúc ca biểu thị tư thế, cố gắng hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước. – hai câu đề là 1 tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả: “Sinh vi nam tử yếu hi kì, Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”. (Làm trai phải lạ ở trên đời Há để càn khôn tự chuyển dời). kiêu hãnh mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn khiến cho nên “điều lạ” (yếu hi kì). Suy rộng ra, là chẳng thể sống tầm thường. không thể sống 1 cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) “tựchuyển dời” 1 phương pháp vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ miêu tả một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, hào kiệt của mình, muốn làm nên sự nghiệp to to, xoay chuyển trời đất, như ông đã đề cập rõ trong một bài thơ khác: “Dang tay ôm chật bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù “. Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng khôn xiết sôi nổi của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được dòng khẩu khí anh hùng cửa nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm cho nên “điều lạ” ở trên đời, từng nấu nung và tâm niệm theo một vần thơ cổ: “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch, Lập thân tối hạ thị văn chương”. (“Tuỳ viên thi thoại” – Viên Mai) (Bữa ăn những mong ghi sử sách, Lập thân xoàng nhất ấy văn chương). Đấng nam nhi muốn khiến nên “điều lạ” ở trên đời đó sở hữu 1 “bầu máu nóng” sôi sục: “Tôi đựơc trời phú cho bầu nhiệt huyết cũng ko đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi lúc đến các chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại giàn giụa nhỏ xuống ướt sũng cả giấy,… ” (Ngục trung thư) – Hai câu trong phần thực, ý thơ được mở mang, tác giã tự khẳng định vai trò của mình trong thị trấn hội và trong lịch sử: “Ư bách niên trung tu hữu ngã, Khẩn thiên tải hậu cánh vỏ thuỳ”. (Trong khoảng trăm năm cần có tớ Sau này muôn thuở, há không ai?) “Ngã” là ta; “tu hữu ngã nghĩa là phải mang ta trong cuộc thế “một trăm năm” (bách niên trung). Câu thơ khẳng định và biểu đạt niềm kiêu hãnh lớm lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. ‘‘Thiên vận chuyển hậu” ngàn năm sau, là lịch sử của quốc gia và dân tộc há lại không mang người nào (để lại tên tuổi) ư? hai câu 3, 4 đối nhau, lấy loại phủ định để làm cho vượt bậc điều khẳng định. Đó là 1 ý thơ sâu sắc diễn tả vai trò cá nhân trong lịch sử: sãn sàng đảm nhận mọi nghĩa vụ mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tường vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: “… “Dẫu cho thoa thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xúc này Gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” (“Hịch tưởng sĩ” -Trần Quốc Tuấn) -… “Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử, Lưm thủ đan tâm chiếu hãn thanh ”. (Văn Thiên Tường) Lấy mẫu hữu hạn “bách niên” của 1 đời người đối với loại vô biên “thiên tải” của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu dà tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, biểu đạt 1 nỗ lực và khát vọng trong buổi xuất hành. vì vậy, trên bước trục đường cách mạng phóng thích dân tộc, trải qua muôn ngàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan: “Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!” (“Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông”) – Phần luận, tác nhái kể về sống và chết, nhắc về công danh. Đây là 1 ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc các năm dài khuất tất dưới ách thống trị của thực dân Pháp. khi sông núi đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, sở hữu sống cũng nhơ nhuốc điếm nhục. Trong tình cảnh ấy sở hữu nấu sử sôi kinh, với chúi đầu vào đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của “Thánh hiền” liệu còn bổ ích gì trong sự nghiệp cứu nước, cứu nhà: “Non sông đã chết, sống thêm nhục, Hiền thánh còn đâu học cùng hoài”. Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ phóng thích dân tộc lên trước tiên. Ông đề cập bằng đa số máu nóng và tình thật, ông kể nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phái hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong “Bài ca chúc Tết thanh niên” viết vào dịp Tết năm 1927, Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên: “Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…” Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm cho nên “điều lạ” ở trên đời, mới tự khẳng định được: “Trong khoảng thoa năm cần với tớ”. – Phần kết là sự kết tinh của 1 hồn thơ bay bổng đượm màu sắc lãng mạn: “ Nguyện trục trường phong Đông hải khứ, Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”. (Muốn vượt biển Đông theo cánh gió, Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.) Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, khích lệ lòng yêu nước, khêu gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành các bài ca ái quốc vì thấm đượm xúc cảm, sôi sục máu nóng, mang đa dạng hình tượng đẹp nhắc về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. hai câu kết là một tỉ dụ hùng hồn: “trường phong’ngọn gió dài), “thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc), là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được thể hiện qua những vị ngữ “nguyện trục” (mong đuổi theo) và “nhất tề phi” (cùng bay lên). dòng ko gian mông mênh mà nhà chí sĩ mong vượt qua là “Đông hải”. nếu như 2 thanh trắc cuối câu 7 (Đông hải khứ) khiến âm điệu thắt lại, nén lại thì 2 thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm âm điệu đựng lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm đấy cũng góp phần biểu hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh đương đầu và khẩu khí của người đội viên có sự hoà hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mệnh của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã kể ở 2 câu kết bài thơ này. “Xuất dương lưu biệt” là bài thơ kiệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là ngôn ngữ tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng. hoa lệ nhất là 2 câu kết. Bài thơ mô tả một cách thức sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vì đại Phan Bội Châu.