Phân tích bài thơ Thương vợ của trần tế xương

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Đề bài: Phân tích bài thơ Thương vợ của trần tế xương

    BÀI LÀM:
    Thi sĩ Tú Xương hay è Tế Xương lúc nhỏ tên là trằn Duy Uyên, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, sinh ngày 10 tháng 8 Canh Ngọ (5 – 9 -1870), tại làng Vị Xuyên, thị xã Mỹ Lộc, thức giấc Nam Định, nay là xã Hàng Nâu, thánh phố Nam Định. Tú Xương hầu như làm cho thơ trào phúng về bao dòng mới quái gở chậm tiến độ. thi sĩ lột trần, đả kích thẳng cánh và lúc cần gọi tên, điểm mặt.
    bên cạnh hồ hết thơ trào lộng, Tú Xương còn để lại phổ thông bài thơ trữ tình đậm đà. Điều này phản chiếu bản chất, cốt cách thức của nhà thơ, một người giàu lòng yêu thương, luôn thao thức với đời và cũng cực kỳ chân thật lúc tự trách mình. Và bài thơ “Thương vợ” của ông là một trong số ngừng thi côngĐây.

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông,
    Nuôi đủ năm con với một chồng.
    Lặn lội thân cò khi quãng vắng
    Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
    Một duyên hai nợ âu đành phận,
    Năm nắng mười mưa dám quản công.
    Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
    Có chồng hờ hững cũng như không.”
    Tác phẩm “Thương vợ” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ đề cập tới phổ quát góc cạnh trong phố hội, đồng thời cũng là tiếng lòng khẩn thiết, sự tri ân đầy xót xa của Tú Xương đối mang bà Tú, qua ngừng thi côngĐây, người đọc cũng phần nào thấy được các đức hi sinh lớn lớn của các người nữ giới lúc bấy giờ hay của bà Tú đối với người chồng của mình.

    “Quanh năm buôn bán ở mom sông,
    Nuôi đủ năm con với một chồng.
    “Quanh năm buôn bán” là cảnh khiến ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, trong khoảng tháng này qua tháng khác , không được một ngày nghỉ ngơi. 1 tay bà tẩn tảo nuôi chồng nuôi con, nỗi khổ và đức hi sinh này ai thấu. Thân phận của người phụ nữ nhưng lại thay chồng đảm nhiệm ra đình. Câu thơ tự trào ẩn cất nỗi niềm chua chát về một gia cảnh gặp phổ quát khó khăn.

    Lặn lội thân cò khi quãng vắng
    Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
    Một duyên hai nợ âu đành phận,
    Năm nắng mười mưa dám quản công.
    những câu thơ tiếp theo lột tả rõ hơn thế cuộc, thân phận của bà Tú Phần thực, tô đậm thêm chân dung bà Tú. Nỗi cực nhọc kiếm sông ở “mom sông” tưởng như chẳng thể nào đề cập hết được! Hình ảnh “con cò” lúc quãng vắng lầm lũi, đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người nữ giới Việt Nam trong phường hội cũ.
    Dẫu cuộc sống mang khổ hờn tủi hổ tương tự như thương ôi “ âu đành phận”. Đã là thân phận đàn bà đành chấp thuận sở hữu tình cảnh hẩm hiu này, nào có dám nhắc công sở hữu người nào. Dù nắng hay dù mưa vẫn 1 mình lầm lũi ngày đêm buôn bán nuôi đủ chồng đủ con. Tú Xương vận dụng rất thông minh 2 thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau kết hợp, màu sắc dân gian đặm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu thị.

    Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
    Có chồng hờ hững cũng như không.”
    Tú xương chửi “đời” nhưng cũng “tự chửi” mình, “tự chửi” cái thói sĩ diện của 1 đấng nam nhi đang trên phố công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than thở sự đời. Tú xương coi mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” sở hữu vợ con, xoành xoạch “hờ hững” trong nghĩa vụ và vai trò của một kẻ khiến cho cha, làm chồng. Thật là “có chồng hờ hững cũng như không” . Bản thân tự tiêu dùng các vần thơ để chửi bản thân, Tú Xương hiểu rõ những nỗi khổ đức hi sinh của người vợ nhưng ông cũng chỉ biết than. Than cho phận bà Tú, nhưng cũng là than cho phận mình, có tài mà không được trọng dụng để 1 mình người vợ đảm trách và nuôi cơm. Lời chửi bản thân của Tú Xương vừa thấm đượm chiếc bi, dòng xấu số trong niềm tây của tác giả, lại vừa dí dỏm, hài hước.