I. Tác giả Hoài Thanh: Hoài Thanh (1909 – 1982) tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, sinh tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nhà nho nghèo. Ông tham gia các phong trào yêu nước từ khi còn đi học. Tháng 8 năm 1945, ông tham gia cách mạng và làm Chủ tịch Hội văn hoá cứu quốc ở Huế, sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành văn hoá – nghệ thuật. Hoài Thanh được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000. Hoài Thanh là một trong những nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với phương châm “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, văn phê bình của Hoài Thanh tinh tế, tài hoa, nhẹ nhàng và ý vị. Tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập: 1960, 1965, 1971) – trong đó nổi bật nhất là cuốn Thi nhân Việt Nam. Đoạn trích thể hiện quan niệm của tác giả về tinh thần thơ mới, thuộc phần cuối bài Một thời đại trong thi ca – tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam. II. Tập “Thi nhân Việt Nam”. Mười năm, một quãng thời gian ngắn ngủi của tiến trình văn học, song đối với phong trào Thơ Mới, mười năm là cả một thời đại thi ca. Một thời đại được đánh dấu bằng bài thơ Tình già của Phan Khôi đăng trên báo Phụ nữ tân dân số 122 ngày 10 tháng 3 năm 1932, một trào lưu văn học mới ra đời, sự giải phóng tình cảm cá nhân, tự do thể hiện những điều thầm kín chừng như bị đè nén hơn 10 thế kỷ của nền văn học trung đại đã tạo nên thành tựu lớn trong lịch sử thi ca Việt Nam. Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân là bản tổng kết phong trào Thơ Mới, là bảng xướng danh để tôn vinh những tài năng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, là công trình phê bình lý luận văn học đáng trân trọng. Thi nhân Việt Nam viết năm 1941, hoàn thành năm 1942, in lần đầu năm 1942 tại nhà in tư nhân Nguyễn Đức Phiên, và cho đến nay cuốn sách đã được tái bản rất nhiều lần. Cuốn sách ra đời vào thời kỳ đỉnh cao của Thơ Mới với hàng loạt các tên tuổi và những tập thơ hay lần lượt ra đời như : Chế Lan Viên – Điêu tàn (1937), Xuân Diệu – Thơ Thơ (Đời nay, Hà Nội, 1938), Huy Cận – Lửa thiêng (1940), Thế Lữ – Mấy vần thơ, tập mới (Đời Nay, Hà nội, 1941), Lưu Trọng Lư – Tiếng thu (1939), Quách Tấn – Mùa cổ điển, Nguyễn Bính – Lỡ bước sang ngang (Lê Cường, Hà Nội, 1940), Vũ Hoàng Chương – Thơ say (1940)… và sau Thi nhân Việt Nam, phong trào Thơ Mới đi vào bế tắc, nhường bước cho trào lưu mới ra đời. Đặc biệt trong tác phẩm, chuyên luận Một thời đại trong thi ca với cấu trúc tự nhiên mà chặt chẽ, với lý luận sắc bén, vừa ý vị nhẹ nhàng trong nét bút tài hoa đã phản ánh những nét cơ bản, đặc trưng của phong trào từ lúc thơ mới ra đời, đấu tranh với lối thơ cũ cho đến lúc thơ mới hoàn toàn chiến thắng. III. Nội dung “Thi nhân Việt Nam”. Một thời đại trong thi ca là một bản tuyên ngôn, một bản hùng ca khải hoàn, là một công trình hoàn chỉnh nhất về diện mạo của phong trào Thơ Mới trong 10 năm vinh quang. Trong khảo luận này, tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã trình bày những luận điểm về : – Nguồn gốc thơ mới – Cuộc tranh luận thơ mới – thơ cũ; – Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới; – Đặc điểm về hình thức và thể loại; – Tinh thần cốt lõi của thơ mới; 1. Về nguồn gốc Thơ Mới: Mở đầu trong Một thời đại thi ca, Hoài Thanh Hoài Chân đã nhận định: “Một xã hội suốt mấy ngàn năm kéo dài một cuộc sống gần như không đổi, về hình thức cũng như về tinh thần. Triều đại tuy bao lần hưng vong, giang san tuy bao lần đổi chủ, song mọi cuộc biến cố về chính trị ít khi ba động đến cuộc sống nhân dân … Nhưng nhất đán, một cơn gió mạnh bỗng từ xa thối đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ” (Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân, trang 9). Sự ảnh hưởng của phương Tây đi vào đời sống tâm hồn con người Việt Nam đã làm một cuộc đổi thay thần tốc “Bao nhiêu cuộc thay đổi trong khoảng năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ” (sđd, trang 10). Công cuộc Âu hóa đi qua các giai đoạn hình thức, tư tưởng, thay đổi tập quán, cách sinh hoạt hàng ngày, đi tâm hồn con người tạo cách nghĩ, tình cảm con người cũng thay đổi. Những mực thước của nền giáo dục phong kiến đã bị một phen điên đảo, những chuẩn mực xã hội đã thay đổi, tình cũng đổi mới, tất nhiên cách thể hiện trong thơ cũng đổi mới. Hoài Thanh – Hoài Chân đã nhận định “Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành hiện thực. Cái khát vọng khẩn thiết đến đau đớn” (sđd, trang 11). Một vấn đề cần nhìn nhận khi người Pháp lần lượt bỏ chế độ khoa cử thì thể Đường luật cũng theo đó mất đi địa vị độc tôn, những luật định nghiêm ngặt của Đường thi không thể hiện được tâm cảm của con người. Và thơ mới ra đời trong cuộc đấu tranh luận khốc liệt với thơ cũ. 2. Cuộc tranh luận thơ mới – thơ cũ: Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ trong Một thời đại thi ca có thể lượt qua các sự kiện sau : 2.1 Cuộc tấn công của thơ mới: – Năm 1928, Phan Khôi công kích thơ cũ trên Đông Pháp thời báo – Năm 1929, Trương Đình Ru công kích thơ cũ trên Phụ Nữ tân dân – Năm 1932, trên Phụ Nữ tân dân số 122 có đăng bài “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” của Phan Khôi. – Năm 1933, nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài Gòn tán dương thơ mới. – Năm 1934, Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Quy Nhơn. – Năm 1935, Nguyễn Thị Kiêm tranh luận với Nguyễn Văn Hanh tại hội Khuyến học Sài Gòn, Đỗ Đình Vượng, Vũ Đình Liên diễn thuyết tại hội Trí Tri Nam Định. – Năm 1936, Trương Tửu diễn thuyết tại hội Khai Trí tiến đức Hà Nội. Đồng thời trên các báo cũng có nhiều bài bênh vực thơ mới. 2.2 Phản ứng của thơ cũ: – Năm 1933, tác giả Tân Việt diễn thuyết bênh vực thơ cũ. – Năm 1934, Tản Đà nói chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy. – Năm 1935, Nguyễn Văn Hanh hai lần diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài Gòn. – Năm 1937, Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội Quảng Trị Huế. Ngoài ra trên nhiều trang báo cũng có đăng bài đả kích thơ mới. 3. Vài nét về con đường phát triển 10 năm của thơ mới: Hoài Thanh – Hoài Chân, tác giả của Thi nhân Việt Nam đã ghi lại: “ Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam, Nxb Hà Nội 1988, trang 25). Mười năm (1932-1941), thơ mới đã đấu tranh với thơ cũ và kết thúc bằng thắng lợi vẻ vang, cái tôi cá nhân được giải phóng. Tác giả Hoài Thanh – Hoài Chân đã chia ra từng giai đoạn nhỏ: – Những năm 1932 – 1935 : vai trò của Thế Lữ – Những năm 1935- 1941 : vai trò của Xuân Diệu – Huy Cận; nhóm thơ tả chân; nhóm thơ tượng trưng. 4. Đặc điểm về hình thức và thể loại: Sự gặp gỡ nền văn minh phương Tây không làm mất đi bản sắc dân tộc. Mặc dầu ảnh hưởng nền văn học phương Tây nhưng trong phong trào Thơ Mới vẫn mang đậm dấu ấn của nền văn học truyền thống. Có thể chia thành 3 dòng chính như sau: – Hồn thơ tiếp thu ảnh hưởng của văn học phương Tây – Hồn thơ Đường trong phong trào Thơ Mới: Thái Can, Quách Tấn … – Dòng thơ có tính cách Việt Nam: Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính … Về hình thức, phong trào Thơ Mới đã bỏ đi nhiều khuôn phép xưa của thơ cũ đồng thời tạo ra nhiều cách thể hiện mới như: Thơ tự do, thơ 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát. 5. Tinh thần cốt lõi của Thơ Mới: “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gom lại trong hai chữ tôi và ta… Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả.” (sđd, trang 43,44). Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ Mới là ở chữ tôi. Đó là một nhận định chính xác, dứt khoát, tự tin, khoa học. Cái tôi tuyệt đối, độc lập, trữ tình, tự khẳng định mình tách khỏi cái ta chung, riêng một cõi, một thế giới. Hoài Thanh – Hoài Chân khẳng định “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.” (sđd, trang 45). Tác giả đã đưa ra bi kịch của cái tôi “Ngày nay lớp thành kiến phủ linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ lên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều vẫn hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.” (sđd, trang 46). Và bi kịch ấy, họ gửi cả vào tiếng Việt để tạo nên phong trào Thơ Mới đặc sắc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.