Phân tích ý nghĩa truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Thạch Lam (1910 -1942) là nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn. Truyện của Thạch Lam thường có cốt truyện rất đơn giản, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, chứa đựng tình cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước cảnh vật và lòng người. Văn Thạch Lam trong sáng giản dị, mà thâm trầm sâu sắc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trích trong tập truyện “Nắng trong vườn” (1938 ) là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn của Thạch Lam.

    Hai yếu tố hiện thực và trữ tình luôn đan cài, xen kẻ nhau, thấm đượm tình nhân ái. Thạch Lam có khả năng đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật một các

    Tóm tắt:

    Truyện viết về cuộc sống tối tăm, nghèo nàn của những người lao động nghèo ở một phố huyện nhỏ bé, tăm tối. Chị em Liên và An được cha mẹ giao cho trông nom một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Cũng như những người dân phố huyện, chị em Liên vừa bán hàng, vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về. Chuyến tàu mang một chút ánh sáng của Hà Nội, ầm ầm chạy vượt qua rồi im tiếng trong màn đêm sâu thẳm. Phố huyện và chị em Liên chìm vào bóng đêm và giấc ngủ yên tĩnh.

    Tác phẩm bộc lộ niềm cảm thương chân thành của Thạch Nam đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ờ phố huyện nghèo trước Cách Mạng và trân trọng ước mong đôi đời tuy còn mơ hô của họ.

    Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương. Đọc truyện, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quấn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

    Bức tranh phố huyện nghèo hiu hắt:

    Câu chuyện mở ra bắt đầu là một buổi chiều tàn rồi đi dần vào đêm khuya ớ một phố huyện nghèo nhỏ bé xa xôi. Bắt đầu là cảnh lúc chiều xuống:

    Thời gian vân động từ chiều tàn đến đêm xuống rồi về khuya. Không gian thu hẹp dần, yên tĩnh và êm đềm, cùng với những âm thanh gợi nỗi niềm xao xác. Đặc biệt, không gian nghệ thuật là không gian bóng tối. Ánh sáng le lói, hiếm hoi, bóng tối tràn lan, dày đặc nhấn chìm, phủ mờ cảnh vật, đè nặng lên cuộc đời của những con người bé nhỏ. Không gian, thời gian gợi nỗi buồn sâu lắng, mênh mông,

    Không gian được cảm nhận bằng thính giác: Tiếng trống thu không từng tiếng một vang ra, tiếng ếch nhái kêu vang, tiếng muỗi vo ve. Những âm thanh đơn điệu, tẻ nhạt trong một không gian vắng lặng. Cảnh vật tiếp tục được nhìn nhận bằng thị giác: Phương tây đỏ rực như lửa cháy, đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. So sánh màu sắc mang tính chất tả thời khắc ngày tàn.

    Sau cùng, không gian phố huyện được cảm nhận bằng cảm giác: Cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào trong hồn, lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Một nỗii buồn len lỏi thấm sâu vào trong tâm hồn.

    Cảnh phố huyện lúc chiều tàn vắng vẻ, đìu hiu được cảm nhận bằng nhiều giác quan khác nhau, được quan sát ở nhiều góc độ: xa gần, vừa cụ thể vừa mơ hồ, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với thiên nhiên.

    Hình ảnh những con người thầm lặng trong bóng tối:

    Trong cảnh xác xơ tiêu điều và ngập đầy bóng tối là những cuộc đời lặng lẽ trong bóng tối. Ở đây, Thạch Lam đã dựng nên bức tranh đời sống chân thật và thấm đượm cảm xúc trữ tình, đã gây nên cảm giác buồn thương day dứt trong lòng người đọc: cuộc đòi những con người nghèo nơi phố huyện. Đó là những con người nghèo khổ, lam lũ, sống lay lắt, đắm chìm trong bóng tối.

    Hình ảnh hai chị em Liên và An:

    Chị em Liên và An tuy còn nhỏ nhưng phải giúp mẹ lo liệu trông coi cửa hàng từ sáng đến tối để tìm kế sinh nhai. Cuộc sống của chị em Liên tuy có đỡ cơ cực hơn những đứa trẻ khác nhưng cũng hết sức đơn điệu, buồn chán và hiu quạnh.

    Ngày nào cũng vậy nhịp sống của chừng ấy những con người vẫn tiếp diễn một cách buồn tẻ đơn điệu và thành thói quen họ kiên nhẫn chờ đợi một chuyên tàu đêm từ Hà Nội ầm ầm lăn bánh vút qua rồi khuất dần im tiếng trong trời đêm sâu thẳm họ mới dọn hàng.

    Cuộc sống con người nơi phố huyện hiện ra trong bần cùng, cơ cực, nghèo nàn, buồn tẻ. Chừng ấy những con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày. Chị em Liên: gia đình sa sút, hoàn cảnh đổi thay, phải sớm mưu sinh nhưng có tâm hồn đẹp, luôn khao khát vươn lên trong cuộc sống.

    Hình ảnh mẹ con chị Tí:

    Chị Tí, ngày đi mò cua bất tép, tối dọn hàng bán nước. “Khi trời nhá nhem tối là thấy mẹ con chị xuất hiện”. Thằng cu Xẻ xách điếu đóm và khiêng hai cái ghé trên lưng ớ trong ngõ đi ra… Tối đen chị mới dọn hàng bán nước. Cái gọi là cửa hàng, cái cơ nghiệp của chị có thể mang vác dễ dàng, vì nó quá nhỏ bé, quá ít ỏi. Tuy chẳng kiếm được bao nhiêu “ôi chao sớm với muộc có ăn thua gì” nhưng chị vẫn phải bán.

    Hình ảnh bác Siêu với gánh phở:

    Bác Siêu với gánh phở. Gánh hàng rong của bác Siêu xuất hiện lúc chập tối và gánh về lúc nửa đêm. Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt mỗi lúc bác Siêu gánh đi, gánh về.Bác Siêu cũng không bán được cho ai vì đó là món ăn quá xa xỉ đối với con người nơi phố huyện.

    Hình ảnh gia đình bác Xẩm:

    Cuộc đời bác Xẫm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, bám sát mặt đất trong bóng tối. Trước mặt là cái thau sắt trắng. Tiếng đàn héo hắt lọt thỏm trong bóng tối. Bác Xẫm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất. nghịch nhặt những rác bấn. Cái gia đình ấy phải sống bằng nghề bán tiếng hát và quỳ gối cầu xin sự thương hại của mọi người.

    Hình ảnh những đứa trẻ con nhà nghèo:

    Chúng đứng lặng lẽ trong bóng tối. Chúng lom khom trên mặt đất lại tìm tòi… Chúng nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được cửa những người bán hàng để lại. Cuộc đời của những đứa trẻ chìm ngập trong đói khát, sự cô đơn đáng sợ.

    Đó là những thân phận nhỏ bé, sống lay lắt, chật vật mưu sinh, quẩn quanh trong nghèo túng. Nhưng họ vẫn chăm chỉ, hiền lành, nhẫn nại, lặng lẽ chia sẻ, quan tâm nhau và “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

    Hình ảnh chuyến tàu đêm qua phố:

    + Trước khi đoàn tàu xuất hiên: phố huyện yên lặng, đầy bóng tối.

    + Khi đoàn tàu xuất hiên từ những báo hiệu đầu tiên: Đèn ghi đã ra kia rồi, tiếng còi xe lừa ở đâu vang lại, một làn khói bừng sáng giang lên đàng xa, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ.

    + Chuyến tàu đến: Tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường, những toa hành khách trên sang trọng, lố nhố người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng. Ánh sáng và âm thanh phá vỡ sự tĩnh mịch trong đêm tối của phố huyện, đem lại sự huyên náo khác thường.

    Lí do đợi chờ tàu của chị em Liên:

    + Đối với chị em Liên: để hồi tưởng về Hà Nội – quá khứ hạnh phúc, được sống trong “một thế giới khác”, thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ, tù túng hiện tại.

    + Đối với dân phố huyện: để có được một dư vị, dư âm khác lạ, “ tươi sáng hơn sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

    + Đoàn tàu được miêu tả từ xa đến gần rồi lại từ gần đến xa, bàng nhiều giác quan và sắc thái cảm giác khác nhau. Đoàn tàu “đã mang một chút thê giới khác đi qua”– một thê giới thật đáng sống với sự giàu sang và rực rỡ ánh sáng, sự huyên náo của thế giới thị thành. Khi đoàn tàu đi qua, phố huyện lại chìm trong bóng tối và sự nghèo nàn vốn có.

    + Đoàn tàu đã đưa phố huyện ra khỏi cảnh sống tù đọng, u uẩn – dù chi trong chốc lát. Chờ đợi đoàn tàu là nhu cầu, là niềm vui và hi vọng – dẫu còn mơ hồ – về một ngày mai tươi sáng, là khát vọng sống mãnh liệt trong tâm hồn những con người nghèo khổ. Thạch Lam đã thể hiện một cách nhìn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng về người lao động nghèo bằng tình cảm và tấm lòng nhân hậu của mình.

    Ý nghĩa của chuyến tàu đêm: Gợi lên mơ ước và hoài niệm đẹp đẽ về một thế giới sáng rực, vui vẻ, huyên náo. Đem đến một thế giới khác tung bừng, huyên náo và đầy ánh sáng, làm thay đổi hẳn khung cánh tối tăm nơi phố huyện. Chuyến tàu mang đến hy vọng, ước mơ đổi đời của những con người nghèo khổ nơi phố huyện, hướng tới một cuộc sống tốt đẹp.

    Hình ảnh hai chị em Liên và An:

    Sau một thời gian chị em Liên dần dần hoà nhập với cuộc sống tẻ nhạt nơi huyện nhỏ. Trước hết là quen với bóng tối. Lúc đầu còn buồn, sau quen dần và cuối cùng là chấp nhận nó trong cuộc sống của mình. Chị em Liên cảm nhận “một mùi âm âm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá… tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này “.

    An: ngây thơ, biết nghe lời. Cậu rất thèm chơi đùa với những đứa trẻ, thèm những li nước xanh đỏ. Đó là những khao khát tự nhiên. Nhìn lũ con nhà nghèo mà động lòng.

    Liên: Giàu tình yêu thương, hiếu thảo, đảm đang. Cô bé có đời sống nội tâm phong phú. Những suy nghĩ riêng của Liên làm nên chất thơ cho truyện. Tác giả kể tỉ mỉ những tâm trạng, nghĩ suy của Liên. Đêm tối ngập đầy đôi mắt cửa Liên. Khi trời về chiều Liên ngồi im lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, bổng dưng thấy cái buồn cửa một ngày tàn thấm thía vào tâm hồn. Liên thích ngồi im lặng ngắm nhìn hàng quán trong đêm. Về khuya, Liên ngồi im lặng trong đêm, đón chờ con tàu cho đến khi tàu đi vụt qua thì Liên mới ngập dần vào giấc ngủ.

    Đặc biệt, đêm nào hai chị em cũng cố thức cho tới giờ xe lửa đi qua. Không phải để chờ bán được hàng, cũng không phải chỉ để nhìn những toa tàu lấp lánh ánh sáng mà có cái gì sâu hơn nhiều đối với hai đứa trẻ.

    Chuyến tàu như một niềm an ủi, một nỗi khát khao, một mơ ước không bao giờ tắt. Ánh sáng đoàn tàu lướt qua mang lại một chút tươi sáng cho sự sống tối tăm, nghèo khổ. Khi tàu đến, “Liên dắt em đứng dậy” . Khi tàu đi xa, Liên và em cứ nhìn theo cho đến khi cái chấm nhỏ của chiếc đèn treo khuất sau rặng tre.

    Tàu đi rồi thì Liên im lặng không đáp lời em. Liên lặng theo mơ tưởng. Liên nhớ về Hà Nội xa xăm, Liên so sánh thế giới con tàu vừa mang đến với thế giới của chị Tí, bác Siêu đang sống càng đen tối bao bọc xung quanh đất quê và ruộng đồng mênh mông. Liên liên hệ cuộc đời của mình như chiếc đèn cúa chị Tí chỉ sáng một vùng đát nhỏ. Liên khao khát chờ con tàu đêm vì nó như đem lại cho Liên một chút thế giới khác hẳn cái vầng sáng cửa chị Tí và bác Siêu. Con tàu đưa đến cho Liên những khoảnh khắc bừng sáng, hấp dẫn, một cái gì sôi động, sang trọng hơn, vui vẻ, huyên náo hơn của Hà Nội.

    4. Nghệ thuật:

    + Cốt truyện đơn giản, ít nhân vật, ít hành động và sự kiện nhưng đầy suy tư của nhân vật.
    + Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng.
    + Yếu tố hiện thực và lãng mạn đan cài vào nhau, gọng văn nhẹ nhàng, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng.
    + Nghệ thuật đối lập đặc sắc.

    5. Giá tri tác phẩm:

    Tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân đạo sâu sắc:

    + Thể hiện nhẹ nhàng mà thấm thía niềm thương cảm, xót xa trước những mảnh đời nghèo khổ, bất hạnh, đặc biệt là trẻ thơ, trân trọng những ước mơ bình dị mà tha thiết – tuy còn mơ hồ – của họ.

    + Qua tâm trạng nhân vật Liên, Thạch Lam như muốn lay tỉnh những tâm hồn đang lụi tắt hãy cố vươn tới một cuộc sống có ý nghĩa, một tương lai tốt đẹp hơn.

    + Tác phẩm là bài ca về thiên nhiên đất nước: miêu tả bức tranh quê hương gần gũi, thơ mộng, gợi nhắc tình cảm nguồn cội, quê hương với những kí ức đẹp mà buồn của mỗi người.
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Bài tham khảo:

    Cảm nhận truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
    • Mở bài:
    Thạch Lam (1910 – 1942), là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX. Ông là người đôn hậu và đa cảm, có biệt tài về truyện ngắn. Truyện ngắn Thạch Lam chú trọng khai thác thế giới nội tâm nhân vật một cách tinh tế với lời văn giản dị, trong sáng. Mỗi tác phẩm của Thạch Lam được ví như những bài thơ trữ tình, với giọng điệu điềm đạm chứa đựng tình cảm yêu mến và sự nhạy cảm trước những biến đổi của thiên nhiên và lòng người. Hai đứa trẻ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn của Thạch Lam
    • Thân bài:
    Hai đứa trẻ được trích trong tập truyện ngắn “Nắng trong vườn” (1938). Truyện xoay quanh cuộc sống của chị em Liên ở nơi phố huyện. Chị em Liên được mẹ giao trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu tại một phố huyện nghèo bên cạnh ga xe lửa. Cũng như nhiều người dân lam lũ tại phố huyện, hai chị em Liên và An vừa bán hàng vừa trông chờ chuyến tàu đêm từ Hà Nội về, ầm ầm lăn bánh qua phố huyện rồi khuất dạng, im tiếng trong trời đêm sâu thẳm. Lúc đó người buôn bán ở phố huyện mới dọn hàng sau một tối ế ẩm, yên tĩnh để trở về nhà. Còn hai đứa trẻ dần dần chìm vào giấc ngủ.

    Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh. Ông chắt chiu từng hình ảnh, con người mà ông đã bắt gặp rồi đưa vào những trang viết vừa chân thực vừa hết sức cảm động.

    Mở đầu tác phẩm là khung cảnh phố huyện lúc chiều tàn được gợi lên bằng câu văn vừa nhẹ nhằng, vừa lắng sâu nỗi buồn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.

    Bắt đầu bằng âm thanh của “tiếng trống thu không vang lên để gọi buổi chiều”, với “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng” và “tiếng muỗi vo ve”. Màu sắc và đường nét đầy xung đột của khoảnh khắc ngày tàn: “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre đen lại in lên nền trời. Bức tranh quen thuộc, gần gũi, thi vị nhưng đượm buồn.

    Khung cảnh cuộc sống nơi phố huyện nghèo và tâm trạng của Liên khi hoàng hôn buông xuống. Toàn bộ bức tranh hiện lên qua hình ảnh phiên chợ tàn. Kết thúc buổi chợ chiều, người về hết, tiếng ồn ào không còn, chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị. Kho gian bốc lên cái mùi ẩm móc quen thuộc của rác, của cống rãnh.

    Phố huyện lúc đêm khuya, bóng tối bao trùm lên tất cả. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối. Tối hết cả con đường ra song, qua chợ về nhà. Các ngõ vào làng lại càng sẩm đen hơn nữa…

    Trong thế giới của bóng tối ngự trị, ánh sáng lóe lên đâu đó ít ỏi nhưng mạnh mẽ. Trên trời, hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh. Dưới đất, vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây. Cả phố huyện chỉ có một vài thứ ánh sáng yếu ớt. Ánh sáng lóe lên từ khe sáng của những cửa hàng còn thức, quần sáng thân mật của ngọn đèn chị Tí, từng hột sáng của ngọn đèn nhà Liên…

    Ánh sáng nhỏ bé, đơn điệu, mong manh càng làm cho bóng tối dày đặc hơn (nghệ thuật lấy sáng để tả tối của Thạch Lam). Phố huyện ngập chìm trong bóng tối mênh mông.

    Hình ảnh con người hiện lên hiu hắt. Những đưa trẻ con nhà nghèo luẩn quẩn quanh góc chợ. Mẹ con chị Tí dọn quán nước, vơi cho cụ chồng bác Xẫm đìu hiu, cụ Thi hơi điên… Cuộc sống nơi phố huyện hiện lên tàn lụi, nghèo đói, tiêu điều.

    Chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”. Tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa nấu phở – món hàng xa xỉ với người dân phố huyện. Gia đình bác Xẩm xuất hiện trên manh chiếu với cái thau trước mặt, góp chuyện bằng “máy tiếng đàn bầu bần bật trong im lặng”. Chị em Liên bận rộn tính tiền hàng. Người nhà cụ Thừa, cụ Lục đi gọi người đánh tổ tôm.

    Những động tác quen thuộc, nhịp sống quen thuộc đã làm nên cuộc sống ở đây. Nhịp sống của người dân phố huyện cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt. Tuy thế những người dân phố huyện vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”

    Ngay trong không gian ấy, tâm trạng Liên cũng có nhiều thay đổi. Ngay khi hoàng hôn buông xuống, cô thấy lòng buồn man mác trước cái thời khắc của ngày tàn. Liên cảm nhận được “cái mùi riêng của đất nước, của quê hương này”. Cô động lòng thương cảm cho mấy đứa trẻ con nhà nghèo, xót thương cho mẹ con chị Tí, lo lắng cho cụ Thi… Chi tiết ấy cho thấy, Liên là cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Ở cô bé có một lòng trắc ẩn lớn lao, yêu thương con người tha thiết.

    Trong bóng tối, cô nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội: “bấy giờ, mẹ Liên nhiều tiền, được đi chơi bòe hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ … một vùng sáng rực và lấp lánh”. Liên buồn bã, yên lặng dõi theo những cảnh đời nhọc nhằn, những kiếp người tàn tạ. Tuy còn bé nhưng Liên có những cảm nhận sâu sắc về cuộc sống từ đọng trong bống tối của người dân phố huyện. Tâm hồn cô nhạy cảm, tinh tế và yêu thương con người.

    Hai đứa trẻ kiên nhẫn, khắc khoải đợi tàu. Mặc dù đêm đã khuya, dù đã “buồn ngủ ríu cả mắt, tuy vậy hai chị em vẫn gượng thức khuya chút nữa: “An đã nằm gối đầu lên đùi chị, mi mắt sắp sữa rơi xuống còn nhắn với: tàu đến, chị đánh thức em dậy nhé”. Chuyến tàu đến trong sự háo hức say mê của hai đứa trẻ. Nó lướt qua trong sự buồn lặng, bâng khuân nuối tiếc của Liên và An.

    Đoàn tàu đi qua phố là hình ảnh ấn tượng nhất trong truyện. Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo, Liên trông thấy “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”. Rồi cô nghe thấy “tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, kèm theo “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xe, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào”. Thế rồi, “tàu rầm rộ đi tới”, “các toa đèn sáng trưng”, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”. Cuối cùng là cảnh tàu đi vào đêm tối, “để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”…

    Chuyến tàu được miêu tả tỉ mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng mong chờ của chị em Liên và người dân phố huyện. Với chị em Liên: chuyến tàu mang đến hình ảnh của Hà Nội (xa xăm, sáng rực, vui vẻ và huyên náo), của hạnh phúc, của những kí ức tuổi thơ êm đềm. Với tất cả những người dân phố huyện: chuyến tàu là biểu tượng của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân phố huyện.

    Thạch Lam đã hướng ngòi bút về phía lớp người lao động bần cùng trong xã hội đương thời. Khung cảnh thường thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nước đọng, những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn gió bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng… Tất cả những cảnh, những người ấy đều được mô tả bằng một số đường nét đơn sơ, thưa thoáng nhưng vẫn hết sức chân thực…

    Cốt truyện Hai đứa trẻ đợn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong manh mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Bút pháp tương phản, đối lập kết họp với nghệ thuật miêu tả sinh động, Thạch Lam đã diễn đạt thành công những biến đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng con người.

    Ngôn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng, giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng, một đặc đểm thường thấy trong trang văn Thạch Lam.

    Qua tâm trạng của chị em Liên, Thạch Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín đáo, nhẹ nhàng nhưng thấm thía biết bao cho tâm hồn người đọc. Đó là tác giả muốn bày tỏ nỗi niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ biết đến ánh sáng, hạnh phúc. Trong xã hội cũ, có biết bao con người như thế. Họ phải sống cuộc đời tẻ nhạt vô nghĩa, đến trong mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện tiêu điều, lụi tắt của cuộc đời mình.

    Cuộc sống của họ cũng sẽ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục ra” trong tăm tối đói nghèo, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra là trên đất nước lầm than nô lệ. Qua đó Thạch Lam đồng thời cũng muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn đang uể oải, lụi tàn.

    Thạch Lam đã khơi dậy ở họ ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn chôn vùi họ. Phải có sự thức tỉnh của “cái tôi” cá nhân mới có được niềm xót thương và sự lay tỉnh đáng quý ấy
    • Kết bài:
    Qua truyện ngắn Hai đứa trẻ, bằng một truyện ngắn trữ tình có cốt truyện đơn giản, Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước cách mạng. Đồng thời, ông cũng biểu lộ sự trân trọng ước mong đổi đời dù còn mơ hồ của họ. Thạch Lam đã đặt tất cả trong một cái nhìn già dặn trước tuổi trong đôi mắt trẻ thơ. Điều ấy dường như từ tác phẩm đã vút lên tiếng kêu hãy cứu lấy những đứa trẻ; trả lại cho chúng sự hồn nhiên, vô tư vốn có, đừng biến chúng trở thành những kiếp người tàn.