Phân tích ý nghĩa và giá trị “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm

  1. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Dàn bài gợi ý:

    • Mở bài:
    Ngô Thì Nhậm là bậc danh sĩ nối tiếng dưới thời Tây Sơn. Ông học rộng, tài cao, tư chất thông minh, tính tình cương nghị. Ngô thì Nhậm từng làm quan dưới triều vua Lê chúa Trịnh. Khi nhà Lê – Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo phong trào Tây Sơn. Ông là người có đóng góp tích cực cho triều đại Tây Sơn.

    Sau khi quét sạch quân Thanh xâm lược và đám tàn quân bán nước, vua Quang Trung chăm lo phục hưng đất nước. Ông giao cho tiến sĩ Ngô Thì Nhậm thay mình viết Chiếu cầu hiền kêu gọi những người tài đức ra giúp nước. Chiếu cầu hiền ra đời từ đó.
    • Thân bài:
    Bố cục bài chiếu chia làm 3 phần:

    + Phần 1: Từ đầu đến người hiền vậy: Vai trò và quy luật xử thế của người hiền
    + Phần 2: Tiếp theo đến của trẫm hay sao: Tình hình thực tiễn và khao khát cầu hiền của vua Quang Trung
    + Phần 3: đoạn còn lại : Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung

    Vai trò, quy luật xử thế của người hiền.
    Mở đầu bài viết, tác giả đã mượn lời của Khổng Tử:

    + Người hiền như sao sáng trên bầu trời, là tinh hoa, tinh tú của non sông, đất nước.
    + Sao sáng phải chầu về nơi Bắc thần.
    + Người hiền phải làm sứ giả cho thiên tử.

    ⇒ Sứ mệnh thiêng liêng, quy luật, chân lí đã được thừa nhận.

    Cách nêu vấn đề, nghệ thuật lập luận ở đoạn văn mở đầu thật giàu hình ảnh, chặt chẽ. Cách nêu vấn đề cũng hết sức cô đọng, ấn tượng, giàu tính thuyết phục, tạo tiền đề vững chắc cho việc cầu hiền ở phần sau

    Tác giả mượn lời của Khổng Tử trong sách Luận ngữ: Sao Bắc Đẩu giữ đúng vị trí của mình, các ngôi sao khác sẽ về sum tụ, chầu xung quanh. Như vậy, dụng ý của tác giả vừa tôn vinh các hiền sĩ vừa tôn vinh hoàng đế, đồng thời khẳng định với hiền sĩ khắp nơi rằng: triều đại mới là một triều đại dùng đức để cai trị đất nước
    Tác giả còn mượn ý trời: xem việc người hiền tài về chầu thiên tử là một quy luật vừa hợp lòng trời, vừa hợp lòng người.

    Vua Quang Trung là người có quyền y cao nhất nhưng ngài không ra lệnh mà phải “cầu”. Điều đó cho thấy nhà vua hướng đến những người tài năng nhưng tự trọng nên không thể ra lệnh mà phải bộc lộ tấm lòng khao khát, chân thành, thỉnh cầu. Các vị thượng quan triều Lê một phần vì trung thành với triều cũ, một phần bất mãn với triều đình mới nên chưa sẵn sàng hợp tác. Bằng những lời thỉnh cầu chân thành và thống thiết nhằm làm họ hiểu rõ thời cuộc và kêu gọi họ cùng nhau giúp sức xây dựng nước nhà.

    Tình hình thực tiễn và khao khát cầu hiền của vua Quang Trung.

    Tình hình thực tiễn.

    Trong lúc thời thế suy vi, các nho sĩ Bắc Hà có cách cư xử tiêu cực, yếm thế:

    + Bỏ đi ở ẩn.
    + Giữ mình không dám nói thẳng.
    + Một số người làm việc cầm chừng.

    ⇒ Cách cư xử của các nho sĩ Bắc Hà đã biểu lộ thái độ bất hợp tác với triều đình mới. Đó là lối sống uổng phí tài năng. Cách nói của chiếu cầu hiền rất tế nhị, khéo léo, thấu tình đạt lí.

    Thái độ của vua Quang Trung khi cầu hiền:

    + “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe”.
    + “Ngày đêm mong mỏi”.

    ⇒ Đó là thái độ khẩn khoản, thiết tha, mong mỏi..

    Hai câu hỏi cuối đoạn: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?” , “Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” đã có tác động như thế nào đến cách ứng xử của các nho sĩ Bắc Hà. Câu hỏi đặt trong tình thế lưỡng phân khiến người nghe phải thay đổi cách ứng xử. Đó là cách nói tế nhị vừa thể hiện trí tuệ vừa thể hiện thái độ thành tâm, vừa khiêm nhường mà tha thiết.

    Trước đây thời thế suy vi cách ứng xử của các nho sĩ là uổng phí tài năng nhưng đó là sự bất đắc dĩ hoặc nhầm lẫn. Do vậy nhà vua có thể khoan thứ.Nhưng thời điểm hiện tại mọi thứ đã đổi khác nên các nho sĩ, người hiền buộc phải thay đổi thái độ. Qua cách nói tế nhị vừa châm biếm và kích tướng nhẹ khiến người nghe nể trọng, tự nhận ra và tự cười về thái độ của mình. Cách nói của Quang Trung thật thấu tình, đạt lí.

    Hoàn cảnh và yêu cầu của đất nước:

    Tác giả đã đưa ra những lí lẽ để nói về hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ:


    + Buổi đầu dựng nghiệp còn nhiều khó khăn.
    + Kỉ cương nơi triều đình còn nhiều khiếm khuyết.
    + Biên ải chưa yên.
    + Dân còn nhọc nhằn.
    + Đức hóa của nhà vua còn chưa thấm nhuần khắp nơi.

    ⇒ Biện pháp liệt kê và kể đã tác động vào trách nhiệm của người sĩ đối với đất nước.

    Tầm nhìn của vua Quang Trung:
    “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn…”

    ⇒ Cách nói có hình ảnh chặt chẽ, nhìn xa trông rộng.

    Phần 2 với nghệ thuật kể, liệt kê thực trạng để tìm cách khơi gợi, kích động những hiền tài có lòng tự trọng và ý thức trách nhiệm. Đến cuối đoạn là những câu hỏi tu từ như xoáy sâu vào lòng người khiến những hiền sĩ có tâm đức không thể thờ ơ trước thực tại của đất nước. Giọng văn khi thì mạnh mẽ lúc lại khiêm nhường và thành tâm, khi thì cổ vũ khích lệ đã cho ta thấy một con người thông tuệ và một tấm lòng đại nhân của vua Quang Trung.

    Chủ trương đường lối cầu hiền của vua Quang Trung:

    + Ai cũng có quyền được tham gia.
    + Cách tiến cử đa dạng.
    + Được dâng sớ tâu bày.
    + Do các quan tiến cử.
    + Dâng sớ tự tiến cử.

    ⇒ Đường lối cầu hiền rộng mở, đúng đắn, tiến bộ, hợp với lòng dân.

    Nghệ thuật:

    – Sử dụng điển cố để chuyển tải nội dung một cách hàm súc, tạo ấn tượng trang trọng.

    – Lời văn ngăn gọn, súc tích; tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ, khúc chiết, kết hợp với tình cảm tha thiết mãnh liệt có sức thuyết phục cả lí lẫn tình.
    • Kết bài:
    Chiếu cầu hiền thể hiện chủ trương đúng đắn và tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc cầu hiền tài phục vụ cho sự nghiệp dụng nước. Bài chiếu còn thể hiện tấm lòng vì nước, vì dân và sự khiêm tốn, thái độ chân thành của vua Quang Trung, giúp ta nhận thức được tầm quan trọng của nhân tài đối với quốc gia.
     
  2. Tác giả: LTTK CTV01
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪
    Bài tham khảo:
    • Mở bài:
    Ngô Thì Nhậm xuất thân gia đình vọng tộc chốn Bắc Hà, là con Ngô Thì Sĩ, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội. Ông là người có đóng góp tích cực cho triều đại Tây Sơn trong chấn chỉnh vì đất nước sau khi đánh bại quân Thanh xâm lược. Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
    • Thân bài:
    Bài chiếu cầu hiền có bố cục rõ ràng, chặt chẽ. Phần đầu: (từ đầu … người hiền vậy): quy luật xử thế của người hiền. Phần hai: (trước đây… hay sao): cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước. Phần còn lại: đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.

    Thừa lệnh Quang Trung nguyễn Huệ viết Chiếu cầu hiền, thế nhưng, bài chiếu tỏ rõ cái tài, cái chí của Ngô Thì Nhậm đối với việc thu phục nhân tài ra phục vụ cho đất nước:

    Ngô thì Nhậm nêu ra quy luật xử thế của người hiền:

    Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.

    Bắt đầu bài chiếu tác giả mượn lời của Khổng Tử để nói lên mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử: “Hiền tài cũng như sao sáng trên trời”. Lời lẽ đó khẳng định và trân trọng người có tài. Tiếp đến từ quy luật tự nhiên “sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc thần”, khẳng định người hiền phụng sự cho thiên tử là một cách xử thế đúng, là tất yếu, là hợp với ý trời.

    Để tăng thêm sức thuyết phục với sĩ phu Bắc Hà, ông đã dẫn trong sách Luận ngữ của Khổng Tử: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dung, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”.

    Lấy lời cổ nhân để lập luận cái lẽ hiển nhiên: có tài tất được tin dùng, ngô thì nhậm đã đánh đúng tâm lí của các sĩ phu Bắc hà. Họ muốn ra phục vụ nhà Tây sơn sau khi triều đình Lê-Trịnh bị đánh bại nhưng lại ngại ngùng vì chưa rõ thực thời thế thế nào. Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục của bài chiếu khiến họ yên tâm và tin tưởng hơn ở sức mạnh nhà Tây Sơn.

    Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước:

    Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe……. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?

    Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà: “Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”.

    Cách sử dụng điển cố, điển tích: “ở ẩn trong ngòi khe”, “trốn tránh việc đời”.v.v… khiến cho câu văn thêm phần trang kính. Tiếp đến lại tỏ lòng mong mỏi của Quang Trung Nguyễn Huệ muốn các quan đừng nghĩ chuyện cũ mà hết lòng ra phục vu đất nước bằng những lời lẽ hết sức thiết tha: Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?

    Bằng cách khiêm tốn nhận sự kém cỏi về mình: “hay trẫm ít đức không đáng kể phò tá chăng”, đặt ra vấn đề tài đức của người trị vì đất nước, bài chiếu đánh thẳng vào nhân tâm, đập mạnh vào nỗi hoài nghi của các quan triều cũ. “Ở ẩn trong ngòi khe” hay “trốn tránh việc đời”, cả hai cách đều không đúng với hiện thực bấy giờ. Vừa thể hiện được sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện được sự đòi hỏi và chút thách thức của vua Quang Trung.

    Tính chất của thời đại mới và nhu cầu của đất nước.

    “Kia như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài… há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?”

    Thẳng thắng thừa nhận những bất cập của triều đại mới, khéo léo nêu nhu cầu của đất nước. Biết bao khó khăn đang thách thức: “Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh”.

    Dù tài trí hơn người, nhưng nhà vua vẫn luôn mong có người giúp sức: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa”.

    Cách nói vừa khiêm nhường, tha thiết vừa kiên quyết. Nhà vua tự tỏ bày về hoàn cảnh đất nước. Lời lẽ chân thành thốt ra tự đáy lòng mình.. Đất nước vừa được tạo lập, dân tình chưa yên, kẻ thù còn lăm le bờ cõi, trăm công nghìn việc cần được thu xếp càng sớm càng tốt. Rõ ràng đó là những lời tâm sự chân thành nhất, không phô trương quyền lực, không dọa nạt chém giết, vị vua ấy hiền từ coi trọng người hiền tài, lo cho vận mệnh của đất nước và quyền lợi của nhân dân

    Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung

    “Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc….. chưa được người đời biết đến, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao”.

    Đối tượng cầu hiền là quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ không trừ một ai miễn một lòng vì đất nước mà không quản ngại gian lao.

    Biện pháp, cách thức cầu hiền cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dân sớ, tâu bày kế sách; cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi; cho phép người tài tự tiến cử. Hễ ai có tài và đem cái tài phục vụ đất nước thì không kẻ giai cấp, thứ bậc, đều được trọng dụng và gi công.

    Đoạn kết là lời kêu gọi động viên, khích lệ cùng nhau gánh vác việc nước để hưởng phúc lâu dài: “nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”. Tư tưởng dân chủ, tiến bộ, tầm nhìn xa trông rộng, chí công vô tư của bậc đại tài Quang Trung Nguyễn Huệ

    Cách nói sung cổ, lối văn ngắn gọn, súc tích, tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ,… bài chiếu vừa rắn rỏi thuyết phục vừa thiết tha cảm động lòng người. Chiếu cầu hiền quả thực xứng đáng là một trong bản hùng văn xuất sắc của thời đại.
    • Kết bài:
    Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dung đất nước. Bài chiếu được viết với nghệ thuật thuyết phục đặc sắc và thể hiện tình cảm của tác giả đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.