Soạn bài Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận SBT Ngữ văn 11 tập 1

  1. Tác giả: LTTK CTV
    Đánh giá: ✪ ✪ ✪ ✪ ✪

    Đề bài
    1.
    Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự về Lê Hữu Trác) trang 24 SGK Văn 11. (Đề 1, trang 24, SGK)
    Trả lời:
    a) Phân tích đề :
    - Đề bài yêu cầu nói về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hĩru Trác). Vì thế :
    + Bài làm phải cho người đọc thấy rõ : Đoạn trích đã phản ánh được những điều đúng với sự thật về phủ chúa, về triều đại vua Lê chúa Trịnh và về xã hội phong kiến suy tàn đương thời nói chung. Đó là những sự thật sâu sắc, có thể giúp người đọc nhận ra bản chất của một chế độ mục ruỗng, xấu xa. Việc phản ánh những sự thật sâu sắc đó đã làm nên một trong những giá trị cơ bản trong đoạn trích.
    + Bài làm không thể viết về những nội dung nằm ngoài giá trị hiện thực (ví dụ : thái độ coi thường danh lợi của Lê Hữu Trác). Nếu viết thế, bài sẽ bị lạc đề, do những nội dung ấy không có ở đề bài.
    + Bài làm phải tập trung làm rõ giá trị hiện thực sâu sắc của một đoạn trích cụ thể. Những ý và dẫn chứng ở các tác phẩm khác, các đoạn trích khác chỉ được thừa nhận khi nhờ chúng mà sự phân tích, đánh giá về giá trị hiện thực sâu sãc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh trở nên sáng tỏ hơn.
    - Đề bài yêu cầu người làm bài phải phát biểu cảm nghĩ của bản thân. Vì thế, anh (chị) không thể nhắc lại những ý kiến của thầy (cô) giáo hay của các nhà nghiên cứu, phê bình (cho dù đấy đúng là những ý kiến xác đáng, lí thú và hoàn toàn phù họp với yêu cầu của đề bài), chừng nào những ý kiến ấy chưa biến thành suy nghĩ và cảm xúc thật của chính mình. Anh (chị) cũng có thể nêu những ý kiến đánh giá, bàn bạc của riêng mình, miễn là các ý kiến ấy chân thành và hợp lí.
    b) Lập dàn ý:
    - Dàn ý của bài làm nên gồm ba phần chính, đúng với bố cục phổ biến của bài văn nghị luận : mở bài, thân bài và kết bài.
    - Trong phần thân bài, cần nêu được các ý chính sau :
    Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh đã:
    + Vẽ ra một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý đến mức một người từng sống ở kinh thành như Lê Hữu Trác đã không ít lần phải sửng sốt, ngạc nhiên.
    + Dựng lên trước mắt người đọc chân tướng của một tầng lóp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp màn che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc đời lành mạnh, tự nhiên.
    + Cho chúng ta nhận ra diện mạo của một chê độ xã hội phi lí, đáng bị đào thải.
    2. Tìm và nhận xét về dàn ý của văn bản nghị luận dưới đây:
    CHÍ THÀNH
    Thành nghĩa là gì ? Nghĩa là thật lòng, không dối mình dối người, không giả nhân giả nghĩa ; việc phải dù tính mệnh cũng không từ, việc phi nghĩa dù phú quý cũng không tưởng.
    Đem lòng thành ấy mà ở với cha mẹ thì nên con thảo; đem lòng thành ấy ở với nước nhà thì nên tôi trung; suy ra anh ở với em, vợ ở với chồng, chúng bạn ở với nhau, ở với đồng loại, ở với hết mọi loài, cũng nên người có nhân có nghĩa, có tín có huệ. Thánh hiền, tiên, Phật cũng bởi cái lòng chí thành ấy mà nên.
    Những người có tài mà hay khinh bạc, lời nói vẫn hay, việc làm vẫn giỏi, đến khi hoạn nạn hay đổi lòng, gặp lúc kinh quyền hay biến tiết, cũng vì không có chí thành làm bản lĩnh.
    Chí thành cũng có lúc xử trí, có lúc dụng mưu. Nếu cứ chắc như đười ươi, thẳng như ruột ngựa, như thế gọi là ngu thành, chỉ đủ cho người ta đánh lừa hay người ta nói dối.
    Người ta thường nói: “Không biết nói dối, không buôn bán được; cứ giữ thật thà, không ra ngoài được”, ấy là lời nói của những người quen lèo lá hàng chợ. Cho nên người nước ta ở với nhau không có đoàn thể, ra đến ngoài không có người tin, củng vì tập nhiễm những câu hủ bại ấy mà mới mất hẳn cái đạo chí thành đi.
    Người có chí thành mới là người có giá trị, như ông tượng gỗ, vàng son rực rỡ là đồ trang sức bên ngoài, mà thần minh cảm ứng là cái chí thành ở trong. Nếu không có thần minh cảm ứng, thì có ai thờ chi ông tượng gỗ?
    (Nguyễn Bá Học, Lời khuyên học trò, dẫn theo Nghiêm Toản, Luận văn thị phạm, NXB Thế giới, Hà Nội, 1951)
    Trả lời:
    a) Văn bản được viết theo dàn ý:
    - Mở bài (từ đầu đến “không tưởng”): Giói thiệu ý nghĩa của hai chữ chí thành.
    - Thân bài (từ “Đem lòng thành ấy” đến “cái đạo chí thành đi”), gồm ba ý:
    + Công dụng của chí thành:
    * Khi có chí thành thì gây dựng được những gì cần thiết cho đạo xử thế, tu thân.
    * Khi không có chí thành thì hại đạo như thế nào, dù lời hay, việc giỏi.
    + Chí thành cần được bổ túc bằng trí mưu, quyền biến.
    + Phê phán những lời nguỵ biện bác bỏ chí thành.
    - Kết bài (đoạn còn lại): Chí thành là căn bản giá trị của con người.
    b) Nhận xét:
    Các ý trong kài này xếp theo "hình chóp” hay “vòng đồng tâm" mà “đỉnh chóp” hay “tâm điểm” là chữ chí thành.
    Đứng về toàn thể, tác già đi dần dần từ định nghĩa đến công dụng rích cực, tiêu cực, rồi suy ra đến chí thành cần bổ túc bằng mưu, trí, và cần được duy trì trong vài trường họp người ta thường bác bỏ, đế kết thúc với một hình lượng cụ thể, tỏ rõ giá trị con người xây dựng trên đạo chí thành.
    Với từng đoạn trong bài cũng thế. Chẳng hạn, ở đoạn mở bài, "tâm điểm’’ là thật lòng, vòng đầu: không dối mình, vòng hai : không dối người, vòng ba: không giả nghĩa, giả nhân, vòng bốn : gặp việc phải, hi sinh tính mệnh cũng không từ, vòng năm: gặp việc phi nghĩa hay phú quý cũng không màng tưởng; các vòng ngoài cứ xa ra dần...
    (Theo Nghiêm Toản, Luận vãn thị phạm, Sđd)
    3. Một bạn dự định viết bài phân tích bài thơ Câu cá mùa thu theo dàn ý sau:
    I. Mở bài : Giói thiệu chung về chùm thơ thu của Nguyễn Khuyên để dẫn vào bài Câu cá mùa thu.
    II. Thân bài :
    - Phân tích khung cảnh ao thu lạnh lẽo và hơi gợn sóng, chiếc thuyền câu và người ngồi câu - tâm điểm của bức tranh.
    - Phân tích khung cảnh gió thu, lá thu, bầu trời thu và ngõ xóm mùa thu - không gian mở ra cao rộng.
    - Phân tích tình yêu quê hương của nhà thơ thể hiện trong hai câu thơ cuối - tình thu ẩn chứa trong cảnh mùa thu.
    III. Kết bài : Cảm nghĩ của bản thân về bài thơ thu đó.
    Câu hỏi:
    Anh (chị) hãy xem xét phần dàn ý của thân bài và cho biết :
    a) Phần dàn ý đó có sai sót gì không ? Vì sao?
    b) Nếu có sai sót thì nên sửa chữa như thế nào?
    Trả lời:
    a) Dễ nhận ra phần dàn ý ấy còn nhiều sai sót :
    - Việc nêu ý có chỗ còn chưa chính xác. Chẳng hạn, tình yêu quê hương không chỉ có trong hai câu thơ cuối ; tình cảm ấy man mác khắp bài thơ, thấm vào từng chữ, từng hình ảnh. Mặt khác, trong hại câu cuối cũng không chỉ có mối tình quê ấy ; ở đó, còn thấy dáng nét của một con người ưu thời mẫn thê đang chìm đắm vào trong thế giới tĩnh lặng của nỗi u hoài...
    - Phép phân chia ý đòi hỏi, trong một lần chia, người lập dàn ý chỉ có thể dựa vào một tiêu chí duy nhất. Vậy mà ở đây, khi xác lập ý lớn, bạn đó đã vừa “cắt dọc” thành các khung cảnh, lại vừa "bổ ngang” để xét riêng hai câu cuối của bài thơ. Hậu quả không tránh khỏi là, khi viết theo dàn ý đó, bài làm sẽ vừa thiếu (vì có những ý cần thiết phải nêu mà không được đề cập đến như hình ảnh con người đang đắm mình vào trong thế giói nội tâm, trong cõi yên lặng, để lánh xa cuộc Sống hỗn tạp bên ngoài) lại vừa thừa (vì có nhiều ý trùng lặp nhau, chồng chéo lên nhau. Ví dụ, hình ảnh người ngồi câu đã nêu trong ý đầu, rồi lại buộc phải nhắc đến trong ý cuối).
    b)Để xây dựng một dàn ý rõ ràng và chính xác, cần dựa vào một, và chỉ một tiêu chí cho một lần chia ý, để từ đó, phân ra được các ý ngang bậc nhau và tách bạch khỏi nhau (dù vẫn liên quan chặt chẽ với nhau). Ví dụ :
    - Cách thứ nhất : (1) Cảnh thu, (2) Tinh thu.
    - Cách thứ hai : (1) Câu 1 - 2 ; (2) Câu 3 - 4 ; (3) Câu 5 — 6 ; (4) Câu 7-8.